Michel Nguyễn Hạnh
Việc dạy giáo lý của tiền nhân bắt đầu từ truyền khẩu
đến chép tay (năm 1621 có “cuốn giáo lý bằng tiếng Đàng Trong” chép tay, nhưng
nay đã thất truyền) và cuối cùng là những bản in và khắc in. Ngoại trừ quyển
giáo lý Phép giảng tám ngày, các sách
giáo lý có truyền tử (imprimatur) từ xưa đến nay đều có bốn mục chính TIN – GIỮ
– CHỊU – XIN và hầu hết được trình bày
theo dạng Hỏi-Thưa – cách thế mang tính hộ giáo, phù hợp với hoàn cảnh xưa
và cả ngày nay. Vì bài viết này đặt trọng tâm về truyền thống dạy giáo lý của tiền nhân nên sẽ dựa vào những bản giáo lý đã phát hành trên 50 năm, cũng là mượn ý của Khổng Tử: “lục thập nhi nhĩ thuận” 六十而耳順 (Luận Ngữ) – Những bộ sách giáo lý đã trải qua hơn 60 năm[1] thì nghe đã quen lắm vì có nhiều đóng góp trong công cuộc truyền giáo trên đất Việt mến yêu.
và cả ngày nay. Vì bài viết này đặt trọng tâm về truyền thống dạy giáo lý của tiền nhân nên sẽ dựa vào những bản giáo lý đã phát hành trên 50 năm, cũng là mượn ý của Khổng Tử: “lục thập nhi nhĩ thuận” 六十而耳順 (Luận Ngữ) – Những bộ sách giáo lý đã trải qua hơn 60 năm[1] thì nghe đã quen lắm vì có nhiều đóng góp trong công cuộc truyền giáo trên đất Việt mến yêu.
TỪ NHỮNG DÒNG LỊCH SỬ…
Duarte Coelho Pereira (1485-
7/8/1554) – quý tộc người Bồ Đào Nha, quản lý thuộc địa Bồ Đào Nha ở Barzil –
đã đến Đại Việt vào năm 1524 (thời Lê sơ) nhưng gặp lúc Nhà Mạc đang dấy binh
để chiếm quyền hành nên phải rút lui để lại một Thánh Giá ở Cù Lao Chàm có khắc
chữ INRI, số MDXXIII (1523) và tên của ông.
Năm 1533, lần đầu tiên sử Việt đề cập đến các vị thừa
sai. Trong Khâm Định Việt Sử (XXXIII, tờ 6a và 6b) có ghi: “Theo sách Dã Lục
(sách của tư gia trong dân), thì vào tháng 3 năm Nguyên Hòa nguyên niên (1533)
đời Lê Trang Tông, có dương nhân tên Y-nê-xu (Ignatio) lén lút đến làng Ninh
Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân và làng Trà Lũ huyện Giao Thủy (nay thuộc
tỉnh Nam Định), ngấm ngầm truyền giáo về tả đạo Gia tô”[2]. Y-nê-xu
hay I-nhi-khu có lẽ vị này người Bồ Đào Nha, nhưng không rõ là giáo sĩ triều
hay thuộc dòng Đaminh hoặc Phanxicô.
Vào năm
1550, Tin Mừng chính thức được loan báo ở Đại Việt. Giáo sĩ Gaspar de (Santa)
Cruz (OP) (1520-5/2/1570), người bồ Đào Nha, từ Malacca đã đến Cần Cảo, Hà Tiên
giảng đạo[3].
Năm 1558,
Malacca[4] có giám mục
tiên khởi Georgio de Santa Lucia (OP), người Bồ Đào Nha. Đại Việt được phân
chia thuộc ranh giới của địa phận này.
Năm 1573, cụ
Đỗ Hưng Viễn, làng Bồng Trung, Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) là người Việt đầu tiên được
nhận Phép Rửa Tội nhân một chuyến đi sứ đến Macao thời vua Lê Anh Tông (1556 -
1573)[5].
Từ năm
1542-1592, Đại Việt bị chia đôi – Nam-Bắc triều: Bắc triều (nhà Mạc) và Nam
triều (nhà Lê). Năm 1573 Trịnh Tùng giết vua Lê Anh Tông, vài tuần sau đưa Lê
Huy Đàm lên ngôi lúc mới 6 tuổi, gọi là Lê Thế Tông (1573-1599). Thời kỳ vua
Lê-chúa Trịnh bắt đầu từ đây. Khi nhà vua còn bé, Công chúa Ngọc Hoa – chị cả
của vua – làm nhiếp chính. Năm 1588, Công chúa
mời các vị thừa sai từ Macao đến Đại Việt. Lúc ấy hai giáo sĩ triều là Alfonso
de Costa và João da Sá (Bồ) đã đến rao giảng tại Thanh Hóa. Sau này có thêm
giáo sĩ Pedro Ordonez de Cevallos gặp bão đã tạt vào cửa Lạch Trường (Thanh
Hóa). Công chúa Ngọc Hoa có tiếp xúc với giáo sĩ Ordonez và xin học đạo, nhận
Phép Rửa Tội ngày 22/5/1591. Công chúa đã chuyển cung của mình thành Đan Viện.[6]
Khi giáo sĩ
Ordonez xuôi thuyền phía Nam để về nước, có ghé vào cửa biển Thuận An gặp tiên
vương Nguyễn Hoàng. Giáo sĩ Ordonez đã Rửa Tội cho tiên vương Nguyễn Hoàng và
những binh lính của ông vào ngày 17/9/1591. Từ đây, việc truyền giáo đã có
những tia sáng mới…
Năm 1592,
Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long, đuổi nhà Mạc chạy lên Cao Bằng rồi điều hành
mọi việc trong nước. Năm 1593, Trịnh Tùng triệu Nguyễn Hoàng ra Bắc với lý do
để cùng đánh tàn dư họ Mạc còn sót ở Bắc bộ. Nguyễn Hoàng đem quân ra Bắc, phá
tan quân Mạc ở Hà Trung và Sơn Nam. Nguyễn Hoàng đóng quân ở Sơn Nam được 8 năm
thì tìm cách thoát về Nam (1600).
Năm 1613,
Nguyễn Hoàng qua đời, người con trai thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay,
tức là Sãi vương (hay chúa Sãi). Năm 1627, lấy cớ Nguyễn Phúc Nguyên bỏ không
nộp thuế cho vua Lê, chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Tráng liền khởi binh vào Nam.
Cảnh Nam-Bắc phân tranh diễn ra qua nhiều cuộc chiến lớn (1627, 1633, 1643,
1648, 1655-1660, 1661-1662, 1672) kéo dài trong 46 năm. Sau cùng nhà Trịnh và
nhà Nguyễn đã đi đến thỏa thuận chia đôi Đại Việt thành Đàng Ngoài và Đàng
Trong, lấy Linh Giang (sông Gianh) làm ranh giới.
Trong bối
cảnh đó, các vị thừa sai đã gặp nhiều khó khăn trong việc truyền giáo cho người
Việt vì bất đồng ngôn ngữ và văn hóa. Từ năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên dùng
tiếng Việt để trình bày những khái niệm công giáo mới và dùng phong tục văn
hóa, tín ngưỡng dân gian và tôn giáo bản địa để truyền giáo, khởi đầu từ tầng
lớp trên của xã hội và lan tỏa đến tầng lớp bình dân.
BƯỚC ĐẦU DẠY GIÁO LÝ
Cuối thế kỷ
XVI và đầu thế kỷ XVII, ở Trung Hoa lưu hành hai cuốn sách bằng chữ Hán: 天主實錄 (tiān zhǔ shí lù) Thiên chủ
thực lục (sách viết về Thiên Chúa – Giáo lý), năm 1584, của
Michele Ruggieri (Minh Kiên) và 天主實義 (tiān zhǔ shí yì) Thiên chủ
thực nghĩa (phép tắc của Thiên Chúa – Giáo luật), năm 1603, của
Matteo Ricci (Mã Lợi Đậu). Tại Việt Nam lúc bấy giờ cũng sử dụng hai cuốn sách
ấy[7].
Việc học giáo lý bằng chữ Hán (chữ Nho) quả là rất khó đối với đa số người
Việt. Ví dụ theo Thánh
Giáo Kinh Nguyện, “những tối ngắm sách về sự thương khó Đức Chúa Giê-su thì
đọc kinh cầu chịu nạn, thay kinh cầu Đức Bà. Còn tối nào lần hạt chung cho kẻ
qua đời thì phải đọc Kinh Cầu chữ Nho”. Nhưng hỏi mấy người đọc mà hiểu được
nghĩa của Kinh Cầu (Chữ) (經求(𡦂):
“Thiên
Chủ căng lân thần đẳng. 天主矜憐臣等 (Thiên
Chúa, Đấng xót thương)
Ki-ri-xi-tô
căng lân thần đẳng. 疎基移吹蘇矜憐臣等 (Đức
Kitô, Đấng xót thương)
Thiên
Chủ căng lân thần đẳng. 天主矜憐臣等 (Thiên Chúa, Đấng xót
thương)
Ki-ri-xi-tô
phủ thông thần đẳng. 疎基移吹蘇俯聰臣等俯聰 (phủ: lời người dưới;
thông: Tai nghe sáng suốt)
Ki-ri-xi-tô
thùy doãn thần đẳng. 疎基移吹蘇垂允臣等 (thùy: đoái thương;
doãn: thuận ý)
Tại
thiên Thiên Chủ phụ giả. 在天天主父者 (tại:
nơi; Thiên Chủ phụ: Đức Chúa Cha; giả: trợ từ đệm cuối câu)
Căng
lân thần đẳng. 疎矜憐臣等 (Đấng xót thương)
Thục
thế Thiên Chủ tử giả. 贖世天主子者 (Đức
Chúa Con cứu chuộc thế gian)
Thánh
Thần Thiên Chủ giả. 聖神天主者 (Đức
Chúa Thánh Thần)
Tam
Vị Nhất Thể Thiên Chủ giả. 叁位壹體天主者 (Một
Thiên Chúa Ba Ngôi)
Thánh
Ma-ri-a. 聖瑪移亞
Thưa:
Vị thần đẳng cầu. 疎爲臣等求 (Đấng
nâng đỡ, cầu (cho chúng con))
Thiên
Chủ Thánh Mẫu. 天主聖母 (Đức
Mẹ Thiên Chúa)
Đồng
thân chi Thánh đồng thân giả. 童身之聖童身者 (đồng
trinh thực đồng trinh)
Ki-ri-xi-tô
chi Mẫu. 基移吹蘇之母 (Mẹ Đức Kitô)
Thiên
Chủ sủng ái chi Mẫu. 天主寵愛之母 (Mẹ
được Thiên Chúa yêu thương)
Chí
khiết chi Mẫu. 至潔之母 (Mẹ
thật thanh khiết)
Chí
trinh chi Mẫu. 至潔貞之母 (Mẹ
thật kiên trinh)
Vô
tổn giả Mẫu. 無損者母 (Không gì tổn hại đến Mẹ)
Vô
điếm giả Mẫu. 無損坫者母 (Không bệ nào xứng với
Mẹ)
Khả
ái giả Mẫu. 可愛者母 (Mẹ thật khả ái)
Khả
kỳ giả Mẫu. 可奇者母 (Mẹ thật lạ kỳ)
Thiện
dụ chi Mẫu. 善諭之母 (Mẹ bảo điều lành)
Tạo
vật chi Mẫu. 造物之母 (Mẹ của các loài)
Cứu
thế chi Mẫu. 救世之母 (Mẹ của Đấng Cứu Thế)…
… …”
Vì vậy, để
việc dạy giáo lý và Kinh Thánh ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài được dễ dàng, các
vị thừa sai lúc ấy đã dùng những bản văn viết vội bằng chữ Nôm hay quốc ngữ. Vì
thế, quyển sách giáo lý dành cho người Việt là một việc rất cần thiết. Năm 1621
có “cuốn giáo lý bằng tiếng Đàng Trong” được sử dụng trong việc truyền giáo.[8]
Nhưng thật tiếc, cho đến nay chưa ai tìm ra dấu vết của sách ấy.
THIÊN CHÚA
THÁNH GIÁO KHẢI MÔNG
SÁCH GIÁO LÝ
ĐẦU TIÊN BẰNG TIẾNG VIỆT
(CHỮ NÔM)
Theo lệnh
Đức Thánh Cha, Thánh Hồng Y ROBERTO
Bellamino S.J. (1542-1621) soạn cuốn Controversiae (Các cuộc tranh luận), gồm những
điều phi bác những luận cứ của Giáo Phái Tin Lành đi ngược với Giáo Lý Công
Giáo Rôma.
Công Đồng
Trento vừa mới kết thúc không lâu trước đó và đối với Giáo Hội Công Giáo cần
phải chấn hưng và xác nhận lại căn tính của chính mình, cả đối với cuộc Canh
Tân Tin Lành. Công việc của Cha Bellarmino được đặt vào trong bối cảnh đó. Từ
năm 1588 đến năm 1594 Bellamino là Cha linh hướng cho các sinh viên Học Viện Rôma,
giữa các sinh viên đó Cha có dịp tiếp xúc và hướng dẫn Thánh Luigi Gonzaga, và
kế đến Cha trở thành Cha Bề Trên của tu viện. Đức Giáo Hoàng Clemente VIII bổ
nhiệm Cha là nhà thần học tư vấn của Tòa Thánh và Viện Trưởng của Ủy Ban Cáo
Giải Điện Chính Tòa Thánh Phêrô, truyền cho Cha biên soạn cuốn sách mang tính
hộ giáo. Sau hai năm 1597-1598, cuốn Dottrina
cristiana breve – Toát yếu Đạo lý
Kitô giáo của Cha Bellarmino ra đời và được nhiều người biết đến. Ngày 3
tháng 3 năm 1599, Cha Bellarmino được Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII phong chức
Hồng Y ngày 18 tháng 3 năm 1602, được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục ở Capua.
Bellarmino được phong chức Giám Mục ngày 21 tháng 4 cùng năm. Đức Hồng Y
Roberto Bellarmino mất ở Rôma ngày 17 tháng 9 năm 1621. Đức Thánh Cha Pio
XI phong chân phước cho ngài năm 1923, phong thánh năm 1930 và tuyên xưng ngài
là Tiến Sĩ Giáo Hội năm 1931.[9]
Năm 1623,
Cha JERONlMO MAΪORICA
(1591-1656) được phái sang Việt Nam và ngài liền bắt tay vào công trình biên
soạn cuốn Dottrina cristiana breve
sang tiếng Việt ở dạng thức chữ Nôm, với tên tác phẩm là天主聖教啟蒙Thiên Chúa
Thánh Giáo Khải Mông (TCTGKM) – sách
ra đời vào khoảng đầu thập niên 30 của thế kỷ XVII. Ngài đã
thêm bớt một số chi tiết cho hợp với tâm lý người Việt: một số truyện, một số
tư tưởng của “sách nọ sách kia” giúp người Việt Nam dễ tiếp thu lẽ đạo, và sống
lời Chúa truyền lại sâu sắc hơn. Tuy nhiên, những câu chuyện của Cha kể lại xảy
ra ở vùng trời nước Ý xa xôi, không phù hợp với tâm lý và văn hóa Đại Việt.
Sách dựa
trên bốn chủ đề lớn của truyền thống Giáo Lý Công Giáo[10]:
Tin (kinh Tin Kính), Chịu (Sacramento), Xin (kinh Tại
Thiên và kinh Ave), Giữ (Mười sự răn). Tuy nhiên, phần
Chịu (Sacramento)
chỉ được nhắc đến ở đoạn thứ nhất và đoạn thứ ba (bảy Sa-ca-ra-men-tô), không
có nội dung riêng. Ở đầu mỗi đoạn có phần trình bày khái quát về nội dung dưới
dạng giải thích thuật ngữ, giải thích câu hỏi. Ngoài ra còn nói đến ảnh hưởng của
nội dung đoạn đó trong đời sống Đức Tin. Sau đó là phần hỏi thưa mang tính hộ
giáo. Sách TCTGKM được viết ở dạng hỏi thưa, hai trang
đầu tiên viết như Bài Tựa: lai lịch và nội dung cuốn sách được trình bày. Nội
dung sách chia làm 6 đoạn:
1. Đoạn thứ nhất:
giảng khải mông là đí gì và có mấy phần. Mở đầu của đoạn thứ nhất tóm lược bốn
nội dung truyền thống (bốn mối) của Giáo lý Công giáo về giáo dục Đức Tin: Tin,
Chịu, Giữ, Xin. Nội dung gồm các câu Hỏi-Thưa và phần thí dụ:
H: Lời ấy có về mấy mối? Th: Về có bốn mối. Một là kinh Tin Kính, hai là kinh Tại Thiên, ba là Mười sự răn, bốn là Bảy Sa- ca--ra-men-tô.
H: Nhân sao có bốn mối mà thôi? Th: Bấy
nhiêu sự Đức Chúa Giê-su truyền về bốn mối, vì giúp ba đức cái, là tin và cậy
cùng mến, vì kinh Tôi Tin Kính giúp sự tin, vì dạy ta phải tin. Kinh Tại Thiên
giúp sự cậy vì dạy ta sự phải xin. Mười
sự răn giúp sự mến, vì dạy ta phải giữ sự gì cho đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Còn các Sa-ca-ra-men-tô chẳng khác gì giống mà gìn giữ sự tin sự cậy cùng sự
mến cho bền.
2. Đoạn thứ hai:
giảng sự dấu Câu-rút. Việc Tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi qua dấu Câu-rút và cách
làm dấu cùng kinh nguyện gắn liền với sự làm dấu. Nội dung gồm các câu Hỏi-Thưa
và phần thí dụ:
H: Đức Chúa Trời có tính Ba Ngôi là
làm sao? Th: Sự ấy cao lẽ lắm. Có bao giờ giảng sự phải tin,
sẽ giảng sự ấy ít nhiều. Bây giờ giảng vậy, mặc sức trí suy được. Vậy phải biết
mọi sự trên trời dưới đất, trước chẳng có, sau thì mới có. Lại phải biết có một
sự hằng có liên, chẳng có bởi vật nào mà ra, cùng chẳng có khi nào hết, hay là
chết. Một sự ấy sẽ nên mọi sự khác ta xem thấy hay là xem chẳng thấy, lại gìn
giữ cùng trị mọi sự ấy, nhất sang trọng tốt lành vô cùng, có phép tắc chẳng hay
hết. Sự ấy ta gọi là Dêu, nước này gọi Thiên Chúa. Lời ấy cũng là một chẳng có
nhiều, vì chưng vốn tin Đức Chúa Trời là trọn lành gồm lại mọi sự lành. Nếu mà
có nhiều Chúa, thì sự lành chia ra cùng Chúa Trời khác, vậy thì Chúa Trời chẳng
có trọn lành, vì thiếu phần riêng ở Chúa khác. Vậy Chúa Trời thật có một mà
thôi, chẳng có nhiều. Song le tính trọng vô cùng làm vậy ở Ba Ngôi gọi là Cha,
Con, Phi-ri-tô San-tô và Ba Ngôi ấy là một Chúa Trời mà thôi, vì Ba Ngôi có một tính, một ý, một phép. Thí dụ dưới thế gian này có ba người, một là Phê-rô, hai là Bảo-lộc, ba là
Giu-ong, mà ba người ấy có một linh hồn cùng một xác, dù mà ba ngôi vì Phê-rô
khác, Bảo-lộc khác ngôi, Giu-ong cũng khác ngôi, thì chẳng khá rằng ba người vì
có một xác cùng một linh hồn. Sự này chẳng có ở loài khác, vì quá sức mọi loài
là thấp hèn, chẳng thông được tính mình cùng nhiều ngôi. Có một Đức Chúa Trời
bởi chẳng cùng, thì trót Đức Chúa Cha ở cùng Chúa Con và Chúa Phi-ri-tô San-tô.
Vậy phải Ba Ngôi vì một là Cha, hai là Con, ba là Phi-ri-tô San-tô, khác ngôi
mà bởi chẳng có khác tính, thì chẳng phải ba Chúa Trời đâu.
H: Bây giờ xin giảng cho tôi sự về
Đức Chúa Trời làm người. Th: Thì phải biết, Ngôi Thứ Hai gọi
là Con, có hai tính, một là tính thiêng liêng trọng vô cùng, hằng có vậy, lại
Ngôi Con lấy tính người là linh hồn cùng xác trong lòng người nữ đồng trinh rất
sạch sẽ. Vì vậy Ngôi Con, xưa là Chúa Trời thật mà thôi, từ ấy cho đến sau làm
người thật ở dưới thế gian ba mươi ba năm, đoạn truyền sự về rỗi linh hồn cùng làm nhiều phép lạ, thì để cho kẻ
gian bắt mình đóng đinh trên cây Câu-rút, và chịu chết có ý đền tội
thiên hạ. Ngày thứ ba sống lại khỏi bốn mươi ngày lên trời. Sự ấy sẽ giảng sau
này.
3. Đoạn thứ ba:
giảng mười hai điều phải tin. (Tin: Kinh Tin Kính) Giảng giải về kinh Tin Kính
với mười hai điều phải tin. Nội dung gồm các câu Hỏi-Thưa và phần thí dụ:
H: Tôi tin kính Dêu là đí gì? Th: Nghĩa
điều ấy là con mắt thịt xem chẳng thấy, thì phải tin có Dêu, lại phải tin có
một Dêu, chẳng phải nhiều. Khi kia rằng: Dêu, chớ nghi là Đức Chúa Dêu giống sự
gì có xác, vì chưng Chúa Dêu là một sự thiêng liêng, hằng có-mà chẳng có khi
hết, dựng nên cùng bao phủ trên trời, thông biết và hay mọi sự. Dù mà ta tưởng
sự gì, muôn vàn sự tốt lành thay, thì cũng phải rằng: Chúa Dêu chẳng phải như
bấy nhiêu vật ấy, vì trọng hơn nữa muôn vàn trùng, đời đời suy chẳng đến là
trọng thể nào.
H: Nhân sao rằng Dêu Cha? Th: Gọi là
Cha vì là Cha thật Con trọng vô cùng, như sau này sẽ nói; cùng gọi là Cha vì là
Cha mày (cha nuôi, từ cổ) những kẻ
giữ đạo nên. Sau hết là Cha muôn vật vì lấy phép mà dựng nên mọi sự.
H: Nhân sao rằng hay trọn? Th: Có
nhiều lẽ mà khen Đức Chúa Trời như sáng láng tốt lành, bao phủ vô cùng, cùng
nhiều lẽ khác. Song le nói đây sự hay trọn, là phép vô cùng cho ta dễ tin khi
Đức Chúa Trời hóa nên trời đất, lấy sự chẳng có mà làm cho có. Kẻ tin Đức Chúa
Trời có phép trọn thì cũng tin chẳng có mắc sự gì mà làm được mọi sự. Ví bằng có ai rằng: Đức Chúa Trời chẳng được
chết cùng chẳng được làm sự lỗi…
H: Xin giảng cho tôi phần thứ hai,
là tôi tin một Con Chúa Dêu là Chúa Giê-su là đí gì? Th: Nghĩa
điều ấy là Đức Chúa Trời có một Con thật, tên là Giô-suê. Song le kẻo kẻ u mê
nghe tiếng con, nghĩ là cha con như người ta thế gian, thì phải xem thí dụ
gương. Vì chưng như kẻ soi gương, liền dựng nên một ánh bóng giống mặt mình,
chẳng những giống hình tượng cũng giống mọi sự khác; như kẻ soi gương, có động
thì bóng trong gương cũng động. Lại bóng ấy bởi mắt ta mà ra, chẳng có khó mà
nên, cùng chẳng có lâu mà ra. Xem thấy mình trong gương liền có bóng ấy. Ấy vậy
cũng phải tin Đức Chúa Cha lấy trí mà soi trong tính mình như trong gương vậy,
liền sinh nên một bóng giống mình. Sau nữa bởi Đức Chúa Trời cho bóng ấy tính
mình, là sự ta làm chẳng được. Khi soi gương thì bóng ấy là Con Đức Chúa Trời
thật, vì sự ấy Con Đức Chúa Dêu cũng là Dêu như Đức Chúa Cha, vì cũng một hình
thể như Cha. Lại Con cực trọng ấy hằng có vậy, chẳng kém Đức Chúa Cha vì bởi
Đức Chúa Cha hằng soi mình, thì hằng có sinh ra con làm vậy. Chớ nghi là con
thiêng liêng ấy bởi lòng người nữ mà ra, hay là có giống sự gì hèn như các
người thế gian làm chi. Vì chưng như đã rằng: Khi trước Đức Chúa Con bởi Đức
Chúa Cha soi tính mình liền ra mà thôi.
H: Gọi Con Đức Chúa Trời là Giê-su Ki-ri-xi-tô
làm chi? Th: Nghĩa tên Giê-su là cứu thế, Ki-ri-xi-tô là chức,
có hai nghĩa, một là thầy cả trên hết thầy, hai là vua trên hết các vua, vì
chưng bởi Con Đức Chúa Trời xuống thế làm người, có ý lấy máu mình chuộc tội
ta, cùng đem lên thiên đàng, thì lấy tên cứu thế ấy. Lại Đức Chúa Cha phong
chức cho là thầy trên hết thầy, cùng vua trên [hết] là Ki-ri-xi-tô. Vì sự ấy
những kẻ theo Người gọi là Ki-ri-xi-tông (Kitô
hữu).
H: Nhân sao rằng Chúa Giê-su là Chúa
chúng tôi? Th: Vì chưng Đức Chúa Con cùng dựng nên ta cùng Đức
Chúa Cha, vì sự ấy là Cha cùng Chúa ta. Sau nữa vì lấy máu mình mà chuộc ta,
(thì) cho được khỏi làm tôi quỷ, thì gọi là Chúa. Khi trước giảng sự Câu-rút;
lẽ thì truyền cho tôi phép nào lạ về sự Ba Ngôi, song le bây giờ cũng nên.
Có nhiều
truyện nói đến sự lạ, Đức Chúa Trời làm cho thiên hạ tin về Ba Ngôi cực trọng.
4. Đoạn thứ bốn:
giảng lời nguyện Đức Chúa Giê-su truyền (Xin: kinh Tại Thiên - Lạy Cha). Nội
dung gồm các câu Hỏi-Thưa và phần thí dụ:
H: Lời trước hết là: Cha chúng tôi ở
trên trời là đí gì? Th: Lời ấy như tựa, hay là lời dọn mà nguyện, vì gọi
Đức Chúa Trời là Cha thì cậy trông mà xin sự ta dùng. Khi rằng ở trên trời, thì
nhớ kính vì chẳng phải cha dưới đất, là Cha trên trời trọng vô cùng. Sau nữa vì
bởi là Cha ta thì cho mọi sự con xin. Lại rằng: Trên trời, có ý cho ta được
biết Đức Chúa Trời có phép làm được mọi sự. Sau hết, nói làm vậy cho ta nhớ còn
ở thế gian như khách đi đường, trong kẻ nghịch, sự ấy xin Đức Chúa Trời phù hộ
cho ta lắm.
H: Sao rằng Cha chúng tôi mà chẳng
rằng Cha tôi? Th: Nói làm vậy cho ta được biết, các bổn đạo phải
yêu nhau như anh em con cái một nhà vậy. Sau nữa cho được hay nguyện [chung] có
ích hơn nguyện riêng.
H: Sao rằng ở trên trời chẳng có
khắp mọi nơi ru? Th: Rằng ở trên trời vì là nơi trọng hơn, và trên
trời xem được phép cùng sáng láng Đức Chúa Trời hơn nơi khác.
H: Danh Cha cả sáng là đí gì? Th: Danh
chẳng phải tên, nghĩa là tiếng, như ta rằng: Nhà có tiếng lớn, ấy là có nhiều
người biết. Ấy vậy, xin Danh Đức Chúa Trời cả sáng là xin cho thiên hạ biết Đức
Chúa Trời mà thờ phượng; bởi dưới thế gian có nhiểu kẻ chẳng thờ Chúa sinh nên
muôn vật, cho nên lại dể cùng bỏ vì chẳng biết, cùng kẻ biết chẳng kính nên,
thì kẻ làm con thật muốn cho thiên hạ biết nghĩa Đức Chúa Cha cho nên, và kính trên
hết mọi sự.
H: Hỏi hằng ngày dùng đủ là đí gì? Th: Lời ấy
trước xin của nuôi linh hồn, sau mới xin của nuôi xác. Của về linh hồn là cực
trọng Cô-mô-nhông (Comunhão), hay nuôi
sống linh hồn là ga-ra-sa cùng là lời trong Kinh Thánh xin là nghe giảng. Sau hết
xin sự Đức Chúa Trời soi trong linh hồn, vì bấy nhiêu sự nuôi ga-ra-sa làm cho
linh hồn sống, của về xác là mọi sự ta dùng cho sống mà làm việc lành.
H: Nhân sao dùng đủ? Th: Vì
chẳng cho ta xin sự thừa, và nhiều quá lẽ. Một cho xin sự đủ nuôi linh hồn và
xác. Sau nữa cho biết ta là khách dưới thế gian. Ấy vậy phải xin ít mà chớ.
H: Sao rằng rầy? Th: Ý điều
ấy là trọn đời, vì xin nuôi chúng tôi liên, cho đến khỏi thế gian mà về quê là
thiên đàng vì khi chẳng còn dùng Cô-mô-nhong cùng nghe giảng hay là dùng của ăn
về xác. Cùng có ý rầy là chẳng lo sự mai, vì đến mai chẳng có biết sống hay là
chết, vì sự ấy chẳng cho lo sự sau quá lẽ.
H: Mà tha nợ chúng tôi là đí gì? Th: Khi
trước xin sự lành chẳng có cùng, và sự lành có cùng. Bây giờ ba điều sau xin
khỏi ba giống sự dữ, một là đã qua, hai là còn bấy bây giờ, ba là sự chưa đến.
Điều trước xin khỏi tội là sự dữ đã qua.
H: Nhân sao tội gọi là nợ? Th: Có ba
lẽ: Thứ nhất hễ là ai phạm tội thì làm lỗi cùng Đức Chúa Trời, vì sự ấy có nợ
cùng bề trên, phải đền vì tội ấy. Thứ hai gọi là nợ vì kẻ giữ đạo đáng Đức Chúa
Trời thưởng. Kẻ phạm tội đáng phạt; vì sự ấy, có nợ là đáng chịu phạt. Thứ ba,
vì hễ là ai ở thế gian như kẻ làm vườn nhà kia mà phải trả trái vườn ấy. Vậy
linh hồn ta là vườn Đức Chúa Trời để cho ta xem sóc, thì ta có nợ cùng chủ vườn
mà phải làm sự lành. Bởi chẳng trả nên, thì xin tha nợ ấy.
5. Đoạn thứ năm: giảng
kinh A-ve (Xin: Kinh Kính Mừng), nội dung gồm các câu Hỏi-Thưa và phần thí dụ:
H: Nhân sao rằng: A-ve Ma-ri-a? Th: Lấy lời
ấy là chào Người, mà lấy lời An-giô Ga-bi-ri-e khi đi thăm Người, và rầy Đức Bà
nghe lời ấy thì mừng lắm, vì nhờ tin rất lành Thánh An-giô xưa đem cho mình, và
muốn cho ta trả nghĩa vì ơn trọng ấy Đức Chúa Trời xuống cho thiên hạ.
H: Đầy ga-ra-sa là đí gì? Th: Ga-ra-sa
làm cho linh hồn được ba sự này. Thứ nhất ghét tội đi, là sự dơ dáy ở linh hồn.
Thứ hai làm cho nên tốt. Thứ ba là cho sức làm được việc lành đẹp lòng Đức Chúa
Trời. Ấy vậy Đức Bà đầy ga- ra-sa vì chẳng hề có tội gì, dù mà tội A-dong để
truyền cho người ta cùng tội mình làm thì chẳng hề có phạm sốt: Cùng đầy
ga-ra-sa, vì được phúc đức khác cao lắm. Sau hết vì được phần thưởng trọng, cho
nên ngự trên hết thần thánh.
H: Chúa Dêu ở cùng Bà là đí gì? Th: Điều ấy
là Đức Chúa Trời ở cùng Người, từ linh hồn Người ở trong lòng mẹ cho đến trọn
đời, mà phù hộ Người liên, vì sự ấy chẳng cho phạm tội gì, dù mà lòng lo miệng
nói cùng việc làm. Mà Đức Chúa Trời chẳng những ở cùng Người vì cho làm trọn
tốt, lại ngự ở linh hồn Người có ý giữ sự trọng ấy đã cho.
H: Nữ trung Bà có phúc lạ là đí gì? Th: Lời này
là lời khen Đức Bà vì chẳng những có mọi sự lành về người đồng trinh, thì cũng
có mọi sự lành về các người nữ nữa. Kẻ có chồng mà có con thì có lộc, sự ấy Đức
Bà cũng được vì sinh đẻ một con trọng hơn trăm nghìn con nhà khác. Ví bằng
rằng: Người có muôn vàn con kể chẳng xiết thì cũng phải, vì chưng các bổn đạo
giữ nết thì nên con Đức Chúa Giê-su cùng là con Đức Mẹ. Chẳng phải con mày, vì
Đức Bà có một con thật là Đức Chúa Giê-su. Song le kẻ khác cùng là con vì yêu
dấu như con vậy. Vì sự ấy rằng: Nữ trung bà có phúc lạ thì phải, vì các người
chẳng có đồng trinh nữ khác xa lắm, mà kẻ đồng trinh thì chẳng có con, kẻ có
con chẳng có đồng trinh. Có một Đức Bà hợp lại hai sự ấy làm một và làm mẹ và
còn đồng trinh với.
H: Bà thai tử Giê-su là đí gì? Th: Lời này
khen Đức Bà chẳng những vì sự ở Người, cùng khen vì trái bởi cây ấy mà ra, vì
sự tốt trái cùng về cây, thì con trọng cùng làm cho mẹ nên trọng nữa. Bởi Đức
Chúa Giê-su chẳng những là người và là trọng nhất các người, lại là Chúa Trời
trọng trên hết mọi sự, thì Đức Mẹ Người chẳng những có phúc trong các người nữ,
lại có phúc trên hết vật dưới thế cùng trên trời nữa.
H: Xin giảng sự sau trong kinh A-ve.
Th: Lời sau I-ghê-rê-gia nói là lời nhất khen Đức Bà thì gọi Người là Mẹ
Đức Chúa Trời, mà bởi có phép xin sự gì được sự ấy, thì xin cầu cho chúng tôi
vì là kẻ có tội, lại xin phù hộ khi còn sống và khi rình qua đời, vì khi ấy ta
dùng sức Người chữa lấy ta hơn nữa.
6. Đoạn thứ sáu:
giảng Mười sự răn (Giữ: Mười Điều Răn), nội dung gồm các câu Hỏi-Thưa và phần
thí dụ:
H: Nhân sao trong mọi phép thiên hạ,
đạo này có Mười sự răn thì
trọng hơn mọi phép? Th: Có nhiều lẽ. Thứ nhất vì phép này Đức Chúa Trời
truyền, mà trước soi trong lòng người ta mới thích hai bia là đá. Thứ hai vì
phép này là phép trước hết như mạch mọi phép khác. Thứ ba vì là phép chung hơn
mọi phép mọi vua mọi nước. Vì chẳng những dạy kẻ có đạo giữ đạo cùng dạy
Giu-dêu và kẻ chẳng có đạo, nam nữ giàu khó, vua cùng dân, kẻ hay chữ, kẻ dốt
cũng phải giữ hết. Thứ bốn vì là phép chẳng có ai cất được. Thứ năm vì phải giữ
phép ấy cho được lên trời như Đức Chúa Giê-su dạy. Thứ sáu là phép trọng vì khi
rao trước hết thì các Thiên Thần thổi loa có sấm sét xuống và uy nghi lắm,
trước mặt các Giu-dêu.
H: Khi chưa có giảng mười sự ấy thì
tôi muốn biết ý tắt vậy. Th: Các điều răn ấy có một là kính
mến Đức Chúa Trời và yêu người ta. Vì sự ấy thích hai là đá, bia trước có ba
điều về Đức Chúa Trời, bia sau có bảy điều về người ta, và là đá ấy có chữ bằng
nhau.
H: Nhân sao có ba điều trước? Th: Vì dạy
lấy lòng cùng lưỡi và việc làm mà kính mến Đức Chúa Trời.
H: Nhân sao bảy điều về người ta? Th: Vì một
điều dạy làm lành cho người ta, sáu điều thì dạy chớ làm hại về mình, và sự tốt
tiếng và sự của, chớ lấy việc dữ hay là lời nói hay là lòng mà làm hại. Lời Đức
Chúa Trời phán rằng: Này Tao là Chúa Dêu mày đã cho mày khỏi làm tôi nước
I-chi-tô. Thứ nhất chớ lấy sự khác mà thờ trước mặt Tao, cùng làm hình tượng mà
thờ nó. Thứ hai chớ lấy tên Đức Chúa Trời mà thề dối. Thứ ba giữ ngày lễ lạy.
Thứ bốn thảo kính cha mẹ cho được sống lâu. Thứ năm chớ giết người. Thứ sáu chớ
làm tà dâm. Thứ bảy chớ ăn trộm cướp. Thứ tám chớ nói chứng dối. Thứ chín chớ
muốn vợ chồng người. Thứ mười chớ tham của người.
Nhận
định sự đóng góp của TCTGKM:
1. Về mặt ngôn ngữ:
1.1.
Chữ Nôm là dạng chữ biểu ý nên thừa hưởng nét độc đáo của chữ Hán về mặt chiết
tự và được người xưa phát triển theo hướng tích cực trong việc truyền giáo. Chẳng
hạn chiết tự trong sách TCTGKM:
–
“Cha chúng tôi ở trên trời là đí gì”?
Trời 𡗶 được tạo bởi chữ 天
thiên (bầu trời) và 天thượng (thiên đế), đó là bầu trời –
nơi ở của thiên đế, đấng có phép làm mọi sự.
–
“Chúa Trời có phép làm được mọi sự”.
Trời 𡗶 được tạo bởi chữ 天
thiên (chúa tể muôn loài muôn vật) và 天thượng
(thiên đế), đó là chủ tể. Từ “thiên” và “thượng” có gần một ý là cách dùng từ
nhấn mạnh hoặc chỉ riêng về một ai, một vấn đề nào đó.
Như
vậy, văn hóa Việt vốn coi trọng ơn nghĩa, trong đó việc thờ Trời cũng là cách tỏ
lòng biết ơn của con người. Vì vậy, khi dùng từ “Chúa Trời", cha Maïorica đã làm cho người Việt đón
nhận giáo lý Công giáo một cách tự nhiên. Từ đây, chỉ có người Việt mới gọi Đức
Chúa là Chúa Trời hay Thiên Chúa. Có ý cho rằng người Việt dùng từ Thiên Chúa
là cách Nôm hóa từ Thiên Chủ của Trung Hoa mà thôi (khi truyền giáo ở Trung
Hoa, cha cha Matteo Ricci dịch từ Deus là Thiên Chủ). Nếu dừng lại ở đó thì
đúng vậy, nhưng từ Chúa Trời của người Việt lại có ý rõ hơn, với “Trời” 𡗶 được tạo bởi chữ 天
thiên (chúa tể muôn loài muôn vật) và 天thượng
(thiên đế), đó là chủ tể.
1.2.
Ngôn từ Công giáo: Những từ Công giáo được ghi lại trong sách TCTGKM vẫn được dùng cho đến
ngày nay, như: cả sáng, chịu chức, chịu nạn, chịu sự khó bằng lòng, công nghiệp
Đức Chúa Giêsu, dùng đủ, đền cùng chuộc tội, hằng sống, khiêm nhường chịu luỵ,
làm dấu, lên thiên đàng, Rất Thánh Đức Bà, rỗi linh hồn, rối đạo, rửa tội, sinh
thì, sự thương khó Đức Chúa Giêsu, thầy cả, “tin, cậy, mến”, tin kính, trị đến,
v.v.
1.3.
Phiên âm tên riêng: tiếng Việt thuộc dạng tượng thanh, mượn từ biểu ý của Hán tự
để tạo ra chữ Nôm. Do vậy trong TCTGKM, Cha
Maïorica dùng
hai cách phiên âm tên riêng tiếng nước ngoài mà cho đến ngày nay chúng ta vẫn
còn sử dụng:
–
Cách thứ nhất: phiên âm sang tiếng Hoa (bính âm). Sau đó dùng cách đọc Hán Việt
để tạo ra từ. Td: Jordan (sông) được phiên bính
âm là zhū róng. Cách viết theo Hán là 珠容,
đọc âm Hán Việt là (sông) Châu Dong. Td: “Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô lấy hình bồ câu khi Đức Chúa Giê-su ở sông Châu
Dong”.
–
Cách thứ hai: phiên âm tiếng nước ngoài theo âm tiếng Việt, sau đó dùng chữ Nôm
để ghi lại. Td1: từ Maria được phiên âm thành ba âm tiết là Ma-ri-a, viết theo
chữ Nôm là 瑪栘阿.
Trong khi ấy, từ Maria người Hoa phiên âm là瑪利亞,đọc theo Hán Việt là Mã
Lợi Á. ‖ Td2: từ Iesus được phiên âm thành hai âm tiết là Giê-su, viết theo chữ
Nôm là 枝秋.
Trong khi ấy, từ Iesus người Hoa phiên âm là耶穌,đọc theo Hán Việt là
Da-tô hay Gia-tô.
2. Về việc đạo đức
–
TCTGKM nói về việc “có đạo” thì phải “thuộc lòng
sự các bổn đạo nguyện”, tức các kinh như kinh Tại Thiên, Ave cùng kinh Tín
Đức Yếu Đoạn (Kinh Lạy Cha, Kính Mừng cùng Kinh Tin Kính). Thói quen đạo đức
này vẫn còn được giữ và phổ biến cho tới ngày nay. Thường ở các giáo xứ, khi
người dự tòng học giáo lý phải thuộc những kinh căn bản.
–
TCTGKM nói về việc làm dấu Câu-rút: “Ngôi cực trọng, vì công nghiệp Đức Chúa
Giê-su đã chịu nạn vì tội thiên hạ. Vì sự ấy, kẻ giữ đạo thì làm dấu trên mình,
khi sớm mai trỗi dậy, khi bởi nhà mà ra, khi ăn cơm, khi đi nằm, khi dọn nguyện
và toan làm mọi việc khác. Sau hết làm dấu có ý cho khỏi mọi chước quỷ, vì nó thấy
dấu này thì dái sợ, chẳng khác gì kẻ có lỗi mà thấy quan cầm roi nó thì hãi,
cho nên khi làm dấu mà cậy lòng lành Đức Chúa Trời và công nghiệp Đức Chúa
Giê-su xưa chịu chết trên cây Câu-rút, thì ta thường khỏi nhiều sự khó về xác
và linh hồn”. Ngày nay, trong
các gia đình
Công Giáo, cha mẹ vẫn dạy con nhỏ làm dấu
Thánh Giá như thế này, đúng theo những điều Cha Jeronimo Maÿorica mô tả và truyền
dạy.
3. Về việc tín lý
–
TCTGKM dạy: H: Đức Chúa Trời có tính Ba Ngôi là làm sao? Th: Sự ấy
cao lẽ lắm... Song le tính trọng vô cùng làm vậy ở Ba Ngôi gọi là Cha, Con,
Phi-ri-tô San-tô và Ba Ngôi ấy là một Chúa Trời
mà thôi, vì Ba Ngôi có một tính, một ý, một phép.
Ngày nay, công thức về Ba Ngôi với các khái niệm “ngôi”, “tính”, “ý”, “phép” vẫn
còn được dạy trong các sách giáo lý.
–
TCTGKM dạy: “Ngôi Thứ Hai gọi là Con, có hai tính, một là
tính thiêng liêng trọng vô cùng, hằng có vậy, lại Ngôi Con lấy tính người là
linh hồn cùng xác trong lòng người nữ đồng trinh rất sạch sẽ. Vì vậy Ngôi Con,
xưa là Chúa Trời thật mà thôi, từ ấy cho đến sau làm người thật ở dưới thế gian
ba mươi ba năm, đoạn truyền sự về rỗi linh hồn cùng làm nhiều phép lạ, thì để
cho kẻ gian bắt mình đóng đinh trên cây Câu-rút, và chịu chết có ý đền tội
thiên hạ. Ngày thứ ba sống lại khỏi bốn mươi ngày lên trời…”. Ngày nay, công thức về Ngôi Hai có hai bản tính, chịu
tử nạn và phục sinh vẫn được giảng dạy như thế.
4. Về sư phạm giáo lý
–
TCTGKM dùng phương pháp Hỏi-Thưa mang tính minh
giáo để giải thích và hướng dẫn giáo dân cách sống đạo – phù hợp với hoàn cảnh
lúc bấy giờ. Chẳng hạn, Cha Jeronimo Maÿorica dùng phương pháp Hỏi-Thưa để giảng
kinh A-ve (kinh Kính Mừng):
H: Nhân sao nguyện Tại Thiên trước,
mới nguyện A-ve sau? Th: Vì chẳng có thánh nào cầu cùng
Đức Chúa Giê-su cho ta bằng Mẹ Người. Ấy vậy nguyện Tại Thiên, đoạn xin cùng
Đức Mẹ cho được sự đã xin, như dưới thế gian khi dộng (tâu) Chúa sự gì, lại xin quan nào gần Chúa giúp ta cho được sự đã
dộng.
H: Ai làm nên kinh A-ve? Th: Đức
Chúa Trời làm nên. Song le khiến Đức Thánh Ga-bi-ri-a cùng bà Thánh I-sa-ve và
I-ghê-rê-gia truyền cho ta, vì chưng lời trước cho đến rằng: Bà có phúc lạ, là
lời Đức Chúa Trời truyền cho Thánh Ga--bi-ri-e đi sứ cùng Đức Bà. Lời sau cho
đến San-ta Ma-ri-a là lời bà Thánh I-sa-ve khi đầy phép Đức Chúa Phi-ri-tô
San-tô truyền; lời khác I-ghê-rê-gia thêm mà Đức Chúa Trời soi cho. Ấy vậy Tại
Thiên trước, A-ve sau là lời trọng hơn.
H: Nhân sao rằng: A-ve Ma-ri-a? Th: Lấy lời
ấy là chào Người, mà lấy lời An-giô Ga-bi-ri-e khi đi thăm Người, và rầy Đức Bà
nghe lời ấy thì mừng lắm, vì nhờ tin rất lành Thánh An-giô xưa đem cho mình, và
muốn cho ta trả nghĩa vì ơn trọng ấy Đức Chúa Trời xuống cho thiên hạ.
H: Đầy ga-ra-sa là đí gì? Th:
Ga-ra-sa làm cho linh hồn được ba sự này. Thứ nhất ghét tội đi, là sự dơ dáy ở
linh hồn. Thứ hai làm cho nên tốt. Thứ ba là cho sức làm được việc lành đẹp
lòng Đức Chúa Trời. Ấy vậy Đức Bà đầy ga- ra-sa vì chẳng hề có tội gì, dù mà
tội A-dong để truyền cho người ta cùng tội mình làm thì chẳng hề có phạm sốt:
Cùng đầy ga-ra-sa, vì được phúc đức khác cao lắm. Sau hết vì được phần thưởng
trọng, cho nên ngự trên hết thần thánh.
H: Cùng có thánh khác đầy ga-ra-sa,
như ông Thánh Tê-vọng cùng thánh khác, nếu làm vậy Đức Bà chẳng có hơn các
Thánh ru? Th: Dù mà có thánh đầy ga-ra-sa thì Đức Bà cũng đầy
hơn. Thí dụ: Có nhiều vò, có cái nhỏ, cái lớn và đầy nước hết. Cái lớn thì có
nước hơn, vì rộng hơn, thì các Thánh sánh cùng Đức Bà như giống bé sánh cùng
giống lớn. Mà Người được sự ấy, vì Đức Chúa Trời cho lên chức cao hơn các
Thánh, là nên Mẹ Chúa muôn vật. Ấy vậy chức Người trọng hơn các con Đúc Chúa
Trời sinh ra, thì ga-ra-sa cùng trọng hơn nữa.
H: Chúa Dêu ở cùng Bà là đí gì? Th: Điều ấy
là Đức Chúa Trời ở cùng Người, từ linh hồn Người ở trong lòng mẹ cho đến trọn
đời, mà phù hộ Người liên, vì sự ấy chẳng cho phạm tội gì, dù mà lòng lo miệng
nói cùng việc làm. Mà Đức Chúa Trời chẳng những ở cùng Người vì cho làm trọn
tốt, lại ngự ở linh hồn Người có ý giữ sự trọng ấy đã cho.
H: Nữ trung Bà có phúc lạ là đí gì? Th: Lời này
là lời khen Đức Bà vì chẳng những có mọi sự lành về người đồng trinh, thì cũng
có mọi sự lành về các người nữ nữa. Kẻ có chồng mà có con thì có lộc, sự ấy Đức
Bà cũng được vì sinh đẻ một con trọng hơn trăm nghìn con nhà khác. Ví bằng
rằng: Người có muôn vàn con kể chẳng xiết thì cũng phải, vì chưng các bổn đạo
giữ nết thì nên con Đức Chúa Giê-su cùng là con Đức Mẹ. Chẳng phải con mày, vì
Đức Bà có một con thật là Đức Chúa Giê-su. Song le kẻ khác cùng là con vì yêu
dấu như con vậy. Vì sự ấy rằng: Nữ trung bà có phúc lạ thì phải, vì các người
chẳng có đồng trinh nữ khác xa lắm, mà kẻ đồng trinh thì chẳng có con, kẻ có
con chẳng có đồng trinh. Có một Đức Bà hợp lại hai sự ấy làm một và làm mẹ và
còn đồng trinh với.
H: Bà thai tử Giê-su là đí gì? Th: Lời này
khen Đức Bà chẳng những vì sự ở Người, cùng khen vì trái bởi cây ấy mà ra, vì
sự tốt trái cùng về cây, thì con trọng cùng làm cho mẹ nên trọng nữa. Bởi Đức
Chúa Giê-su chẳng những là người và là trọng nhất các người, lại là Chúa Trời
trọng trên hết mọi sự, thì Đức Mẹ Người chẳng những có phúc trong các người nữ,
lại có phúc trên hết vật dưới thế cùng trên trời nữa.
H: Xin giảng sự sau trong kinh A-ve. Th: Lời sau
I-ghê-rê-gia nói là lời nhất khen Đức Bà thì gọi Người là Mẹ Đức Chúa Trời, mà
bởi có phép xin sự gì được sự ấy, thì xin cầu cho chúng tôi vì là kẻ có tội,
lại xin phù hộ khi còn sống và khi rình qua đời, vì khi ấy ta dùng sức Người
chữa lấy ta hơn nữa.
H: Nhân sao đánh chuông nguyện A-ve
một ngày ba lần, sớm mai và nửa ngày, cùng ban hôm? Th: Đánh
chuông cho ta được biết, dùng phép Đức Chúa Trời cùng các Thánh phù hộ, vì ta ở
trong kẻ nghịch và thấy và xem chẳng thấy. Sau nữa phải nguyện liên chẳng những
khi mới làm việc và nửa mùa, lại khi làm việc đoạn cùng phải nguyện nữa. Cùng
có ý khác, đánh chuông ba lần cho ta nhớ ba sự trọng, Một là Đức Chúa Giê-su ra
đời, hai chuộc tội, ba là sống lại, Vì sự ấy, sớm chào Đức Bà mà nhớ đến khi
Con Người sống lại, chào nửa ngày, nhớ khi Con Người chuộc tội, chào ban hôm là
khi Mẹ chịu thai.
H: Lời này có đẹp lòng Đức Bà hơn
các lời nguyện khác chăng? Th: xưa bà Thánh Ti-đê khi xem lễ
mà thầy cả chào Đức Bà thì người cũng muốn chào Đức Bà lắm, liền rằng: Chớ gì
tôi biết lời gì trọng mà kính Chúa tôi. Bấy giờ linh hồn người như bỏ xác vậy,
liền thấy Đức Bà có kinh A-ve chép bên ngực Người những chữ vàng, liền phán
rằng: Con tôi, xưa nay chẳng có ai chào Mẹ mà đẹp lòng hơn khi nguyện A-ve, vì
xưa Đức Chúa Cha lấy lời ấy mà cho phép cả, cho nên chẳng hề có phạm tội gì.
Đức Chúa Con cho sáng láng, cho nên Mẹ chẳng khác gì ngôi sao soi cho thiên hạ.
Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô cho Mẹ đầy ga-ra-sa và cho những kẻ, cậy Mẹ được sự
ấy nữa, vì vậy rằng: Đầy ga-ra-sa. Khi rằng Chúa Dêu ở cùng Bà, thì làm cho nó
nhớ khi Con Đức Chúa Trời ra đời làm người ở trong thai Mẹ. Khi rằng: Nữ trung
thì các vật xem Mẹ có phúc hơn các vật Đức Chúa Trời dựng nên. Khi rằng: Gồm
phúc lạ thì khen Con Mẹ làm phúc cho thiên hạ. Người phán điều ấy, thì bà Thánh
ấy chẳng thấy nữa. Có truyện khác về A-ve thì phải xem sách phép lạ Đức Bà,
trong sách ấy cùng nhiều truyện về Thân Mẫu Phúc, cùng sự Rô-sa-ri-ô và
Cô-rô-na Đức Bà nữa.
–
TCTGKM dùng phương pháp Kể Chuyện với cách quy
nạp. Dùng một câu chuyện cụ thể để trình bày chủ đề giáo lý. Từ thời Chúa Giêsu
đi ra giảng cho đến ngày nay, phương pháp Kể Chuyện luôn là cách thức tốt giúp
truyền tải giáo lý qua trí tưởng tượng và khả năng tư duy của người nghe. Chẳng
hạn, Cha Jeronimo Maÿorica dùng phương pháp Kể Chuyện để giảng mở rộng sự răn
thứ nhất trong Mười Sự Răn (Mười Điều Răn):
H: Nhân sao vẽ Đức Chúa Cha như ông
già, vẽ Đức Chúa Phi-ri-tô San-tô như chim bồ câu, và các Thiên Thần như trai
có cánh, mà Đức Chúa Trời cùng các Thiên. Thần chẳng có xác hình tượng mà vẽ
được? Th: Khi ta vẽ làm vậy, chẳng có vẽ sự tính thật Đức
Chúa Trời hay là Thiên Thần, vì chẳng có tính nào con mắt ta xem thấy được, một
vẽ hình xưa Đức Chúa Trời cùng các Thiên Thần lấy mà hiện cùng người ta thế
gian, như Đức Chúa Cha lấy hình già mà hiện cùng ông Thánh Đa-ni-e, Đức Chúa
Phi-ri-tô San-tô lấy hình bồ câu khi Đức Chúa Giê-su ở sông Châu Dong (Jordan) các Thiên Thần vẽ như người trai
vì có nhiều lần lấy hình ấy. Sau nữa vẽ như còn trẻ vì hằng tốt lành cùng có
phép liên. Vẽ cánh vì Đức Chúa Trời sai đi đâu thì vâng lời chóng lắm như bay
vậy. Vẽ mặc áo trắng vì hằng sạch sẽ chẳng có tội gì. Bây giờ, nói đây một hai
truyện về sự kính Đức Chúa Trời cùng sự vẽ ảnh. Trong kinh gương truyện rằng:
Xưa có một người nữ sang trọng hay kính Đức Bà lắm, mà hằng xin cho được xem
thấy con Người, là Đức Chúa Giê-su. Đến khi người ấy nên mười bốn tuổi, trước ngày
lễ sinh nhật, thì Đức Bà bởi trời mà xuống sáng láng tốt lành và cho người ẵm
Đức Chúa Giê-su có hình người trẻ. Bấy giờ Đức Chứa Giê-su hỏi nó rằng: Mày mến Tao chăng? Nó rằng: Tôi kính mến
Chúa tôi. Lại hỏi mến bao nhiêu? Nó
rằng: Bằng yêu xác tôi. Lại hỏi: Mày mến
hơn xác mày chăng? Thì nó thưa rằng: Tôi kính Chúa tôi bằng lòng tôi. Đức
Chúa Giê-su lại hỏi: Chẳng hơn lòng ru? Con
ấy liền chảy nước mắt ra mà thưa rằng: Sự ấy trái tim tôi thưa mà chớ. Nói đoạn
ngực cùng trái tim người mở ra và linh hồn ra khỏi xác. Đức Chúa Giê-su cùng
Đức Mẹ đem lên trời, các [Thiên] Thần hát mừng chung quanh khéo lắm. Kẻ ở trong
nhà nghe tiếng hát liền chạy đi xem, thì thấy con ấy đã chết, song le được sống
ở trên trời, vì thấy trái tim có chữ vàng rằng: Kính mến Chúa tôi hơn mình tôi,
vì dựng nên, có chuộc tội tôi. Trong sách thầy cả Sô-phô-ni-ô có truyện này về
thờ ảnh. Xưa trên núi Ô-li-vê-tê có một thầy tu nhiều năm, thì quỷ cám dỗ thầy
ấy làm tà dâm; mà bởi người cậy Đức Chúa Giê-su thì được nó liên. Có một lần quỷ
xui lòng lắm, cho nên người ấy kêu rằng: Thôi thôi, mày xui lòng tao lâu năm
làm gì. May tao đã già chẳng còn phải mày nữa. Bấy giờ quỷ hiện ra mà rằng: Mày
thề giữ kín lời tao bảo bây giờ, thì tao sẽ thôi chẳng có xui lòng nữa. Đến khi
người ấy đã thề thì quỷ rằng: Mày bỏ ảnh thờ ấy thì tao sẽ thôi. Ảnh ấy là hình
Đức Bà ẵm Đức Chúa Giê-su. Bấy giờ thầy ấy rằng: Tao xin liệu sự ấy đã, sẽ thưa
mày. Sớm mai đi tìm thầy khác mà hỏi cho biết lấy lời phải mà thưa cùng quỷ.
Bấy giờ thầy ấy rằng: Quỷ dối thầy vì nó ép thề sự chẳng nên. Song le bởi thầy
tỏ sự này thì ngoan. Vậy thầy rằng: Phạm tội ma quỷ giục lòng chẳng bằng tội là
bỏ ảnh chẳng có thờ nữa. Vậy chớ nghe ma quỷ làm chi. Thầy ấy nghe sự làm vậy,
dốc lòng thờ ảnh Đức Bà hơn khi trước, quỷ liền đến mà quở rằng: Ớ thằng già kia đã lỗi lời thề ru? Ngày
phán xét sẽ cáo mày. Thầy ấy liền rằng: Tao đã thề lầm. Từ này về sau tao càng
thờ ảnh Đức Chúa Giê-su cùng Đức Mẹ hơn nữa, mà chẳng nghe mày trọn đời. Quỷ
nghe điều ấy liền đi chẳng còn bên thầy ấy nữa.
[1]
Theo ngành Lịch sử văn hóa, một đời
là 30 năm. Vậy 60 năm là hai đời, từ đời ông truyền đến đời cháu.
[3] Lúc
này Hà tiên còn thuộc Khmer. Thạch Bi do vua Lê Thánh Tông dựng ở Phú Yên là
nơi phân định ranh giới. Xem thêm nguồn (Jesuits prepare to celebrate 400 years
in Vietnam): http://en.gloria.tv/?media=554966
[5] Việc
này chỉ dựa trên gia phả nên vẫn chỉ là dã sử, chưa xem là chính sử được. Xem thêm PHẠM HỒNG LAM, Lịch sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam,
Dũng Lạc.
[8] Xem
thêm nguồn: Về cách thức dạy dỗ những người giáo hữu đầu tiên – sách Lịch sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam, Phạm
Hồng Lam. Dũng Lạc xuất bản.
[9]
Tham khảo Lời mở đầu trong Thiên Chúa
Thánh Giáo Khải Mông của Nhóm Dịch Thuật Hán Nôm Công Giáo.
[10] Năm
430, thánh Augustinô viết sách giáo lý dự tòng (De catechizandis rudibus) gồm bốn
phần: đạo nghĩa tóm lại nơi kinh Tin Kính (Tin); phụng vụ và việc cử hành (Chịu);
hoán cải và thực hiện các điều răn (Giữ); cầu nguyện (Xin).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét