Tứ Nguyên Yếu Lý
肆原要理 (TNYL)[1]
là sách giáo lý bám sát theo chỉ thị của công đồng Trento (1545-1563)
– sách giáo lý phải diễn dịch từ kinh Credo – do Đức Cha Clément Masson Nghiêm
dịch từ nguyên tác La Doctrine Chrétienne
của Charle Lhomond (1727-1794) và Đức Cha phó Louis Maria Trị truyền in năm 1898, tại Hồng Kông. Sách có bốn phần:
của Charle Lhomond (1727-1794) và Đức Cha phó Louis Maria Trị truyền in năm 1898, tại Hồng Kông. Sách có bốn phần:
PHẦN
THỨ NHẤT: GIẢNG VỀ KINH TIN KÍNH (36 đoạn)
·
Đoạn thứ nhất: Giảng về
sự học hành cho biết các lẽ trong đạo, là sự cần dường nào.
·
Đoạn thứ hai: Giảng về
có Đức Chúa Trời.
·
Đoạn thứ ba: Giảng về Đức
Chúa Trời là Đấng lọn lành và gồm no mọi sự thể nào.
·
Đoạn thứ bốn: Giảng về
Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi.
·
Đoạn thứ năm: Giảng về
Đức Chúa Trời định liệu mọi sự và coi sóc mọi sự.
·
Đoạn thứ sáu: Giảng về
sự đạo là sự cần dường nào.
·
Đoạn thứ bảy: Giảng về
có một Đức Chúa Trời mà thôi.
·
Đoạn thứ tám: Giảng về
phép mầu nhiệm một Đức Chúa Trời Ba Ngôi.
·
Đoạn thứ chín: Giảng về
Đức Chúa Trời đã dựng nên trời đất muôn vật.
·
Đoạn thứ mười: Giảng về
A-dong phạm tội và tội tổ tông truyền.
·
Đoạn thứ 11: Giảng về Đức
Chúa Trời phán hứa Đấng Cứu Thế sau sẽ ra đời.
·
Đoạn thứ 12: Hãy còn
nói về lời Đức Chúa Trời phán hứa Đấng Cứu Thế sau sẽ ra đời và kẻ ngoại đạo
sau sẽ trở lại chịu đạo.
·
Đoạn thứ 13: Giảng
riêng về các đấng tiên tri đã nói tiên tri sau này Đấng Cứu Thế sẽ ra đời thể
nào.
·
Đoạn thứ 14: Giảng về Đức
Chúa Giê-su là Con Một Đức Chúa Trời cùng là Chúa chúng tôi.
·
Đoạn thứ 15: Giảng về
nhân phép Phi-ri-tô Sang- tô mà Rất Thánh Đức Bà chịu thai và sinh đẻ đồng
trinh sạch sẽ.
·
Đoạn thứ 16: Còn giảng
về phép mầu nhiệm Đức Chúa Giê-su ra đời.
·
Đoạn thứ 17: Giảng về
khi Đức Chúa Giê-su còn sống ở thế gian này thì Người ở thể nào và Người làm
nhiều phép lạ thể nào.
·
Đoạn thứ 18: Giảng về đạo
Thánh Đức Chúa Giê-su lập ra.
·
Đoạn thứ 19: Giảng về Đức
Chúa Giê-su gồm no các nhân đức.
·
Đoạn thứ 20: Giảng về Đức
Chúa Giê-su chịu nạn chưng thì quan Phong-xi-ô Phi-la-tô đóng đinh gác Câu-rút.
·
Đoạn thứ 21: Giảng về Đức
Chúa Giê-su chết đoạn thì chịu táng và xuống địa ngục.
·
Đoạn thứ 22: Giảng về
ngày thứ ba, Đức Chúa Giê-su bởi trong kẻ chết mà sống lại.
·
Đoạn thứ 23: Còn giảng
về sự Đức Chúa Giê-su sống lại.
·
Đoạn thứ 24: Giảng về sự
Đức Chúa Giê-su lên trời mà Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha.
·
Đoạn thứ 25: Giảng về
ngày sau Đức Chúa Giê-su sẽ đến mà phán xét kẻ sống và kẻ chết.
·
Đoạn thứ 26: Giảng về lời
rằng: Tôi tin kính Phi-ri-tô Sang-tô.
·
Đoạn thứ 27: Giảng về lời
rằng: Tôi tin có Thánh I-ghê-rê-gia Ca-tô-li-ca.
·
Đoạn thứ 28: Còn giảng
về sự lập nên Thánh I-ghê-rê-gia và những kẻ tử vì đạo.
·
Đoạn thứ 29: Giảng về
các dấu riêng chỉ Thánh I-ghê-rê-gia.
·
Đoạn thứ 30: Còn giảng
về các dấu riêng chỉ Thánh I-ghê-rê-gia.
·
Đoạn thứ 31: Giảng về
Thánh I-ghê-rê-gia có quyền phép mà cai trị và coi sóc bổn đạo thể nào.
·
Đoạn thứ 32: Giảng về
các Thánh cùng thông công.
·
Đoạn thứ 33: Còn giảng
về các Thánh cùng thông công.
·
Đoạn thứ 34: Giảng về lời
rằng: Tôi tin có phép tha tội.
·
Đoạn thứ 35: Giảng về
loài người lại sống.
·
Đoạn thứ 36: Giảng về lời
rằng: Tôi tin hằng sống vậy.
·
PHẦN THỨ HAI: GIẢNG VỀ
MƯỜI ĐIỀU RĂN ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ SÁU SỰ RĂN THÁNH I-GHÊ-RÊ-GIA (42 đoạn)
·
Đoạn thứ nhất: Giảng về
các điều răn Đức Chúa Trời là làm sao.
·
Đoạn thứ hai: Giảng về
nhân đức tin.
·
Đoạn thứ ba: Giảng về
nhân đức trông cậy.
·
Đoạn thứ bốn: Giảng về
nhân đức kính mến.
·
Đoạn thứ năm: Giảng về
sự thờ phượng.
·
Đoạn thứ sáu: Giảng về
sự thể.
·
Đoạn thứ bảy: Giảng về
sự chửi rủa.
·
Đoạn thứ tám: Còn giảng
về sự chửi rủa.
·
Đoạn thứ chín: Giảng về
sự giữ ngày lễ lạy.
·
Đoạn thứ mười: Còn giảng
về sự giữ ngày nhất lễ lạy và sự xem lễ ngày ấy.
·
Đoạn thứ 11: Giảng về
phải lo liệu thể nào cho được xem lễ nên.
·
Đoạn thứ 12: Còn giảng
về sự phải lo liệu thể nào cho được ăn mày xem lễ nên.
·
Đoạn thứ 13: Giảng về sự
thương yêu người ta.
·
Đoạn thứ 14: Giảng về sự
thảo kính cha mẹ.
·
Đoạn thứ 15: Giảng về
cha mẹ phải coi sóc con cái thể nào.
·
Đoạn thứ 16: Giảng về
điều răn thứ năm: Chớ giết người.
·
Đoạn thứ 17: Giảng về sự làm gương mù gương xấu.
·
Đoạn thứ 18: Giảng về
điều răn thứ sáu: Chớ làm tà dâm.
·
Đoạn thứ 19: Giảng về sự
lòng động lòng lo, tư tưởng về sự chẳng nên.
·
Đoạn thứ 20: Giảng về sự
nói hoa tình tục tĩu.
·
Đoạn thứ 21: Giảng về sự
con mắt xem những sự chẳng nên.
·
Đoạn thứ 22: Giảng về
những sự phải làm cho được giữ mình sạch sẽ.
·
Đoạn thứ 23: Giảng về sự
ăn trộm ăn cắp.
·
Đoạn thứ 24: Còn giảng
về sự ăn trộm ăn cắp.
·
Đoạn thứ 25: Giảng về sự
nói dối, cùng sự làm chứng dối.
·
Đoạn thứ 26: Giảng về sự
nói hành.
·
Đoạn thứ 27: Giảng về sự
đoán xét dong dài vô ích, và sự ngờ vực cho người ta.
·
Đoạn thứ 28: Giảng về sự
ước ao sự chẳng nên.
·
Đoạn thứ 29: Giảng về sự
tham lam của người ta.
·
Đoạn thứ 30: Giảng về
sáu sự răn Thánh I-ghê-rê-gia.
·
Đoạn thứ 31: Giảng về sự
xưng tội một năm một lần.
·
Đoạn thứ 32: Giảng về sự
chịu Mình Thánh Đức Chúa Giê-su trong mùa Phục Sinh.
·
Đoạn thứ 33: Giảng về sự
ăn chay.
·
Đoạn thứ 34: Giảng về sự
kiêng thịt ngày thứ sáu cùng ngày thứ bảy.
·
Đoạn thứ 35: Giảng về sự
tội.
·
Đoạn thứ 36: Giảng về bảy
mối tội đầu.
·
Đoạn thứ 37: Giảng về sự
hà tiện.
·
Đoạn thứ 38: Giảng về sự
dâm dục.
·
Đoạn thứ 39: Giảng về sự
ghen ghét.
·
Đoạn thứ 40: Giảng về sự
mê ăn uống.
·
Đoạn thứ 41: Giảng về sự
giận ghét.
·
Đoạn thứ 42: Giảng về sự
làm biếng trễ nải.
PHẦN THỨ BA:
GIẢNG
VỀ CÁC PHÉP SA-CA-RA-MEN-TÔ
·
Đoạn thứ 1: Giảng về
các ơn Ga-ra-sa.
·
Đoạn thứ 2: Giảng về
các phép Sa-ca-ra-men-tô.
·
Đoạn thứ 3: Còn giảng về
các phép Sa-ca-ra-men-tô.
·
Đoạn thứ 4: Giảng về
phép Rửa Tội.
·
Đoạn thứ 5: Giảng về những
lời khấn hứa khi chịu phép Rửa Tội.
·
Đoạn thứ 6: Giảng về
phép Thêm Sức cho mạnh đạo.
·
Đoạn thứ 7: Giảng về phải
dọn mình chịu phép Thêm Sức cho mạnh đạo thể nào.
·
Đoạn thứ 8: Giảng về kẻ
đã được chịu phép Thêm Sức cho mạnh đạo, phải ăn ở thể nào.
·
Đoạn thứ 9: Giảng về
phép Giải Tội.
·
Đoạn thứ 10: Giảng về
phép Giải Tội sinh ra những ích nào.
·
Đoạn thứ 11: Giảng về sự
ăn năn tội.
·
Đoạn thứ 12: Giảng về
các lẽ giúp cho ta được ăn năn tội nên.
·
Đoạn thứ 13: Giảng về sự
dốc lòng chừa.
·
Đoạn thứ 14: Giảng về sự
xưng tội.
·
Đoạn thứ 15: Giảng về kẻ
chẳng có lòng thật thà mà giấu tội khi xưng tội.
·
Đoạn thứ 16: Giảng về sự
xưng tội chung.
·
Đoạn thứ 17: Giảng về sự
đền tội.
·
Đoạn thứ 18: Còn giảng
về sự đền tội.
·
Đoạn thứ 19: Giảng về
phép In-du.
·
Đoạn thứ 20: Giảng về
phép Mình Thánh Máu Thánh Đức Chúa Giê-su.
·
Đoạn thứ 21: Giảng về sự
dọn mình cho được ăn mày chịu Mình cùng Máu Thánh Đức Chúa Giê-su nên.
·
Đoạn thứ 22: Còn giảng
về sự dọn mình ăn mày chịu Mình cùng Máu Thánh Đức Chúa Giê-su.
·
Đoạn thứ 23: Giảng về
phải làm đí gì khi đã chịu lễ đoạn.
·
Đoạn thứ 24: Giảng về
những ích lợi bởi chịu lễ mà ra.
·
Đoạn thứ 25: Giảng về sự
chịu lễ chẳng nên.
·
Đoạn thứ 26: Giảng về sự
năng chịu lễ.
·
Đoạn thứ 27: Giảng về
phép tế lễ Mi-sa.
·
Đoạn thứ 28: Giảng về
phép Xức Dầu Thánh cho kẻ liệt.
·
Đoạn thứ 29: Giảng về
phép truyền chức.
·
Đoạn thứ 30: Giảng về
phép nhất phu nhất phụ.
·
Đoạn thứ 31: Giảng về sự
dọn mình ăn mày chịu phép nhất phu nhất phụ.
PHẦN
THỨ BỐN: GIẢNG VỀ SỰ ĐỌC KINH CẦU NGUYỆN
·
Đoạn thứ 1: Giảng về sự
đọc kinh cầu nguyện là sự cần dường nào.
·
Đoạn thứ 2: Giảng về sự
đọc kinh cầu nguyện hay làm ích cho ta là dường nào.
·
Đoạn thứ 3: Giảng về
phép dọn mình thể nào cho được đọc kinh cầu nguyện nên.
·
Đoạn thứ 5: Giảng về
câu thứ nhất kinh Lạy Cha rằng: chúng tôi xin danh Cha cả sáng.
·
Đoạn thứ 6: Giảng về
câu thứ hai kinh Lạy Cha rằng: Nước Cha trị đến.
·
Đoạn thứ 7: Giảng về
câu thứ ba kinh Lạy Cha rằng: Vâng ý Cha dưới đất bằng trên trời vậy.
·
Đoạn thứ 8: Giảng về
câu thứ bốn kinh Lạy Cha rằng: Chúng tôi xin Cha rầy cho chúng tôi hằng ngày
dùng đủ.
·
Đoạn thứ 9: Giảng về
câu thứ năm rằng : Mà tha nợ chúng tôi bằng chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng
tôi vậy.
·
Đoạn thứ 10: Giảng về
câu thứ sáu rằng: Xin chớ để chúng tôi sa chước cám dỗ.
·
Đoạn thứ 11: Giảng về
câu sau hết kinh Lạy Cha rằng: Mà lại chữa chúng tôi khỏi mọi sự dữ.
·
Đoạn thứ 12: Giảng về
kinh Lạy Mừng và sự kính thờ Rất Thánh Đức Bà Ma-ri-a.
Quyển sách
giáo lý này không viết theo dạng Hỏi-Thưa mà viết theo kiểu giải thích bốn mục
chính TIN – GIỮ – CHỊU – XIN theo kiểu
sách Giáo lý Công đồng Trento và ngày nay quyển Sách giáo lý Hội Thánh Công Giáo (Catechismus Catholicae Ecclesiae)
cũng thực hiện theo cách này.
Nhận
định sự đóng góp của TNYL:
1. Về mặt ngôn ngữ
1.1.
Chữ Nôm trong TNYL vào thế kỷ XIX có
một thay đổi so với chữ Nôm trong sách
TCTGKM ở thế kỷ XVII.
1.2.
Ngôn từ Công giáo: những từ Công giáo được ghi lại trong sách TNYL có từ đã cổ,
có từ vẫn được dùng cho đến ngày nay, như: ăn
mày các phép (lãnh nhận các bí tích), bảy
mối tội đầu (các thứ tội phát sinh ra các tội khác), bụt thần ma quỷ (bụt thần đây không hiểu là Đức Phật (Budha), mà là
những tượng thần mê tín), các Thánh cùng
thông công (các Thánh trên trời, các linh hồn nơi luyện hình, các giáo hữu
còn phấn đấu ở trần thế làm thành một cộng đồng thông hiệp với nhau), chưng thì (vào thời), gồm no (đầy đủ), hằng sống vậy (sống vĩnh cửu), ngày
lễ lạy (lễ Chủ Nhật), ngày nhất lễ
(ngày buộc phải tham dự thánh lễ), ngự
bên hữu (có quyền lực hạnh phúc như Chúa Cha), nhân phép (nhờ quyền năng), phép
Giải tội (Bí tích Thống hối), phép
Mình thánh Máu Thánh Đức Chúa Giê-su (Bí tích Thánh Thể), phép nhất phu nhất phụ (Bí tích hôn phối),
phép Rửa tội (Bí tích Rửa tội), phép Thêm sức (Bí tích Thêm sức), phép truyền chức (Bí tích Truyền Chức
Thánh), phép Xức Dầu Thánh cho kẻ liệt
(Bí tích Xức Dầu thánh), sách Sấm Truyền
Cũ (sách Cựu Ước), tử vì đạo (làm
chứng cho đạo bằng cái chết)…
1.3.
Phiên âm tên riêng như trong TNYL:
–
Cách thứ nhất: phiên âm sang tiếng Hoa (bính âm). Sau đó dùng cách đọc Hán Việt
để tạo ra từ. Vd: Nạp Tạp Lặc (Nazareth).
–
Cách thứ hai: phiên âm tiếng nước ngoài theo âm tiếng Việt, sau đó dùng chữ Nôm
để ghi lại. Chẳng hạn như: Kê-lê-men-tê (Clément); I-gliê-rê-gia (Igreja): Hội
Thánh Công Giáo; Ca-tô-li-ca (Catholique): Công giáo…
2. Về tín lý
+
Phần thứ nhất có ba mươi sáu đoạn, giảng tường tận về Kinh Tin Kính. Sách không
thể hiện ở dạng hỏi thưa nhưng chia ra những chủ đề nhỏ để trình bày. Cách thức
này vẫn gặp ở sách Giáo lý Hội Thánh Công
giáo ngày nay (2010).
+
Phần thứ hai có bốn mươi hai đoạn, giảng về: ba nhân đức đối thần Tin, Cậy, Mến;
các điều răn của Đức Chúa Trời; sáu sự răn của Thánh I-ghê-rê-gia (Hội Thánh);
bảy mối tội đầu. Những điều trong phần thứ hai ngày nay vẫn được đề cập đến
trong Giáo lý Hội Thánh Công giáo
(2010).
+
Phần thứ ba có ba mươi mốt đoạn, giảng chi tiết về chất thể và mô thể của bảy
phép sa-ca-ra-men-tô (Bí tích); giảng về cách thức ăn mày các phép (chuẩn bị
lãnh nhận các bí tích).
+
Phần thứ tư có mười hai đoạn, giảng về sự đọc kinh cầu nguyện là cần thiết dường
nào; giảng về kinh Lạy Cha.
3. Về sư phạm giáo lý
TNYL được trình
bày theo phương pháp truyền thụ - diễn dịch và dùng Kinh Thánh để chứng minh,
không dùng phương pháp đặt câu hỏi cũng không dùng phương pháp kể chuyện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét