Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

DỰ THẢO HƯỚNG DẪN TỔNG QUÁT VIỆC DẠY GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM


DẪN NHẬP

1. Trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta tham gia vào công cuộc canh tân Hội Thánh bằng cách lấy truyền giáo làm mục tiêu cho các hoạt động mục vụ của Hội Thánh hay đặt mọi hoạt động mục vụ của Hội Thánh trong nhãn quan truyền giáo. Ngài viết: “Tôi ước mơ một ‘chọn lựa truyền giáo’, nghĩa là một nỗ lực truyền giáo, có khả năng biến đổi mọi sự,
để các thói quen, các cách hành động, các giờ giấc và chương trình, ngôn ngữ và cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự bảo tồn của Hội Thánh.”1 Ngài xác quyết: “Nếu chúng ta cố gắng đặt tất cả vào trong một nhãn quan truyền giáo, việc này cũng sẽ ảnh hưởng tới cách chúng ta thông truyền sứ điệp.”2
2. Nhằm hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha, chúng ta, những người đang dấn thân trong lãnh vực huấn giáo tại Việt Nam muốn đặt hoạt động giáo lý trong nhãn quan này, để tìm hiểu xem phải thông truyền sứ điệp Tin Mừng thế nào hầu có thể chuyển đạt được cả nội dung căn bản lẫn vẻ đẹp và hương thơm của nó cho người Việt trong bối cảnh xã hội hiện nay. Theo Đức Thánh Cha, để bước vào công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui, các tín hữu phải đi vào cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Chúa Giêsu, một cuộc gặp gỡ với tình yêu Thiên Chúa được triển nở thành một tình bạn phong phú đồng thời đưa họ vượt qua chính mình để đạt tới sự thật đầy đủ nhất về sự hiện hữu của mình; đây chính là “nguồn mạch và cảm hứng cho mọi nỗ lực Phúc Âm hóa”.3
3. Trong tập sách này, trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu thực tại xã hội, giáo hội và việc dạy giáo lý tại Việt Nam, để thấy những thực tại này ảnh hưởng trên đời sống đức tin của người tín hữu như thế nào; từ đó nhận ra những thách đố cho huấn giáo hiện nay (I); kế đến, chúng ta nhìn lại đường hướng của Giáo Hội hoàn vũ cũng như địa phương về huấn giáo (II); cuối cùng, xác định phương hướng cho việc canh tân huấn giáo tại Việt Nam (III).

CHƯƠNG I

BỐI CẢNH


4. Chúng ta không có ý mô tả chi tiết và phân tích đầy đủ về bối cảnh mà trong đó người kitô hữu Việt Nam đang sống và làm việc nhưng chỉ trình bày vắn tắt một số nhân tố, nhằm khám phá ra những thách đố cho việc sống và loan báo Tin Mừng nói chung và cách riêng cho huấn giáo hiện nay trên quê hương đất nước.

1. Thực tại xã hội Việt Nam

Chúng ta sẽ tìm hiểu hiện trạng xã hội dựa trên hai cấu tố: một gồm các yếu tố về dân số, kinh tế và chính trị; hai gồm các yếu tố xã hội, văn hóa, giáo dục và tôn giáo.

Thực tại dân số - kinh tế và chính trị

Về dân số

5. Theo Tổng cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, ngày 01/11/2013 dân số Việt Nam đạt ngưỡng 90 triệu người, cơ cấu dân số vàng mà các quốc gia trên thế giới đều ao ước. Gọi thế là vì cứ 2 người lao động mới có một người phụ thuộc (trẻ em dưới 15 tuổi và người già trên 65 tuổi). Với quy mô dân số này, Việt Nam xếp thứ 14 trong các nước đông dân nhất thế giới, đứng thứ 3 về quy mô dân số ở các nước Đông Nam Á. Sự kiện này có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nếu mỗi phụ nữ duy trì mức sinh từ 2-2,1 con thì mỗi năm dân số Việt Nam tăng hơn 1 triệu người và năm 2050 dân số khoảng 110 triệu, trong đó người già trên 65 tuổi chiếm 18%, một cơ cấu dân số đẹp vì hài hòa giữa các lứa tuổi và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.4
Tuy nhiên, “Việt Nam đang bị mất cân bằng giới tính ở mức báo động đỏ”. Tỷ số giới tính của trẻ em mới sinh năm 2013 là 113,8 bé trai/100 bé gái, tăng so với mức 112,3 bé trai/100 bé gái của năm 2012.5
Tỷ lệ nạo phá thai gia tăng và ngày một trẻ hóa; trung bình mỗi năm có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là học sinh và sinh viên, Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ năm thế giới. Tỷ lệ vô sinh của Việt Nam ngày càng tăng do viêm nhiễm qua đường sinh sản hay phá thai ở vị thành niên và thanh niên.6

Về kinh tế

6. Việt Nam đã tiến một bước dài trên đường chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường. Sau hai mươi năm chuyển đổi sang kinh tế thị trường (1990-2010), Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất thế giới với thu nhập đầu người khoảng 200-300 đôla một năm đã trở thành một nước có thu nhập trung bình với thu nhập đầu người khoảng 1000-1500 đôla một năm và đang cố gắng đạt tới 1500-3500 đôla một năm. Thành quả này bắt nguồn từ những thay đổi về tư duy hội nhập vào kinh tế thế giới với các hiệp định AFTA,7 hiệp định song phương Việt Mỹ (BTA)8 và gia nhập WTO.9 Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh nhờ “đổi mới” môi trường đầu tư khiến khu vực tư doanh bấy lâu ngủ yên nay sống lại và đầu tư nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam.
Tuy nhiên, từ năm 2008, kinh tế Việt Nam bắt đầu suy giảm một phần do khủng hoảng kinh tế, phần khác do kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ, bội chi ngân sách, lạm phát gia tăng tới mức trên dưới 20% năm 2011. Hậu quả là một nửa số doanh nghiệp mới thành lập bị phá sản hay đóng cửa. Kinh tế Việt Nam đang ở vào giai đoạn thực sự khó khăn, nhưng phát triển là chuyện khả thi, vì Việt Nam là vùng đất có nhiều tài nguyên, với một dân số đọc thông viết thạo và một tinh thần kinh doanh dám chấp nhận rủi ro. Kinh tế Việt Nam phải cần một chính sách thích hợp cho sự phát triển.10

Về chính trị

7. Từ năm 1975, Việt Nam thống nhất dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hiến pháp khẳng định Đảng “lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng."11 Với sự lãnh đạo thống nhất, công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 giành được nhiều thành quả; kinh tế tăng trưởng, xã hội và văn hóa phát triển, hệ thống chính trị gồm ba phần Đảng, Nhà nước và Mặt trận đổi mới về tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị đó.12
Vì chỉ có một lãnh đạo duy nhất là Đảng nên quyền bính của Nhà Nước là tập trung, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất công và quyền của người dân chưa được tôn trọng.13 Tuy nhiên, Hiến pháp 2013 đã thừa nhận một số quyền căn bản của con người. Đảng và Nhà nước thì cố gắng lành mạnh hóa đội ngũ cán bộ, gia tăng sự giám sát của dân chúng trong việc lãnh đạo của Đảng cũng như việc quản lý của Nhà nước, để củng cố lòng tin của dân chúng vào hàng ngũ lãnh đạo.

Thực tại xã hội, văn hóa, giáo dục và tôn giáo

Về xã hội

8. Khi chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Việt Nam phải giải quyết một vấn đề xã hội đi kèm sự phát triển; đó là sự bất bình đẳng về thu nhập dẫn đến tình trạng người nghèo không được hưởng thành quả của sự phát triển cũng như sự cách biệt giầu nghèo. Việt Nam đã đạt được những thành tích quan trọng về mặt giảm tỷ lệ người nghèo trong dân chúng từ 50% năm 1990 xuống còn 19% năm 2008. Tuy nhiên, mức chênh lệch thu nhập và mức sống ở Việt Nam mỗi năm một tăng, tạo ra nhiều bất công và tệ nạn trong xã hội, nhiều triệu người phải rời xa gia đình hoặc cả gia đình phải di chuyển đến nơi khác để học hành, làm việc, nhất là đến các đô thị hay thành phố lớn, nhiều gia đình bị tan vỡ, môi trường bị ô nhiễm.14

Về văn hóa

9. Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa ngàn đời, người Việt luôn tự hào với các giá trị tinh thần và đạo đức như thờ cha kính mẹ, tôn sư trọng đạo, trọng tín nghĩa, khẳng khái, chân thành, thậm chí sẵn sàng chết vì lòng trung nghĩa, đoàn kết hào hùng chống ngoại xâm.
Từ năm 1975 đến nay, người Việt cố gắng xây dựng lại đất nước bằng cách du nhập khoa học kỹ thuật cũng như lối sống của các nước. Người Việt ngày càng thông thạo khoa học nhờ có nhiều phương tiện truyền thông hơn như báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, và cả mạng lưới thông tin toàn cầu (internet).
Trình độ học vấn của người dân được nâng cao, nhưng có những dấu hiệu cho thấy họ đang trải qua một cuộc “khủng hoảng về giá trị” làm nẩy sinh nhiều hiện tượng bi thảm về đạo đức, văn hóa và xã hội: gia đình và xã hội ngày một rạn nứt, giả dối, lừa lọc, tàn nhẫn; giáo dục xuống dốc; tham nhũng thành quốc nạn; đạo lý thành đảo điên ; nhiều người trẻ choáng ngợp trước vẻ quyến rũ của xã hội tiêu thụ nên sống cuồng sống vội, sống buông thả phó mặc.15

Về giáo dục

10. Theo phúc trình của Chính phủ về tình hình giáo dục tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI, giáo dục Việt Nam đã đạt những thành tựu sau: nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn; đạt được một số kết quả quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; chính sách xã hội về giáo dục đã được thực hiện tốt hơn và có hiệu quả hơn; chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu và điều kiện bảo đảm phát triển giáo dục được tăng cường.
Tuy nhiên, giáo dục còn vướng phải những yếu kém sau: chất lượng còn thấp; phương pháp lạc hậu, chậm đổi mới; các điều kiện bảo đảm phát triển còn nhiều bất cập: con em gia đình nghèo, gia đình có thu nhập thấp và con em đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận giáo dục, nhất là ở các bậc học cao; một số hiện tượng tiêu cực trong giáo dục chậm được giải quyết như dạy thêm học thêm, mua bán văn bằng, bệnh thành tích...16

Về tôn giáo

11. Dù chủ nghĩa vô thần là ý thức hệ chính thức trong cả nước từ năm 1975, nhưng Việt Nam vốn là một xã hội đa tôn giáo. Tôn giáo tại Việt Nam mang đặc tính tổng hợp, hội nhập và tiếp biến. Điển hình là sự khai sinh các tôn giáo bản địa như Cao Đài (1926) với 2,4 triệu tín đồ17 và Phật giáo Hòa Hảo (1939) với 1,3 triệu tín đồ.18 Bên cạnh tín ngưỡng dân gian, niềm tin vào Ông Trời và thực hành việc tôn kính Ông Bà tổ tiên, đời sống tâm linh và nhân sinh quan của người Việt mang đậm dấu ấn của truyền thống Tam giáo, đặc biệt là Phật giáo. Theo thống kê của World Population Statistics 2013,19 trong số hơn 90 triệu dân, có 85% nhận mình theo niềm tin Phật giáo (dù chỉ có 8% thực hành đạo thường xuyên), 8% theo Kitô giáo mà đa số là Công giáo (6,7%). Ngoài ra còn có các tín đồ của Islam (64.000)20 và cộng đồng tôn giáo Baha’i (7.400).21
Trong hệ thống giáo dục Nhà Nước, từ giữa thập niên 1990, có một sự chuyển biến trong cách nhìn về tôn giáo: từ sự nhấn mạnh luận điểm “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (Karl Marx) sang việc nhìn nhận “tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc…”, theo các văn bản pháp quy.22 Trong thực tế, khuynh hướng xem tôn giáo như “văn hóa tâm linh” đang ngày càng phổ biến nơi các phương tiện truyền thông xã hội lẫn một số tôn giáo. Các lễ hội dân gian và nhiều hiện tượng mang tính chất tâm linh, ngoại thường, đang bùng phát khắp nơi, cùng với giai đoạn “mở cửa”, di dân và bùng nổ thông tin. Dù chưa nhìn nhận như pháp nhân, chính phủ không phủ nhận vai trò và giá trị của các tôn giáo đối với thiện ích của cộng đồng, luân lý gia đình và đạo đức-nhân bản cá nhân.
Tuy nhiên, không phải vì thế mà công cuộc loan báo Tin Mừng trở nên dễ dàng hơn! Thách đố hiện nay đối với các vị chức trách các tôn giáo, không tập trung vào việc đối phó với chủ nghĩa vô thần (như 3 thập niên sau 1975), cho bằng đương đầu với chủ trương thế tục hóa, xu hướng thực dụng, duy hưởng thụ, chủ nghĩa tương đối hóa về chân lý và luân lý cùng những hệ quả của trào lưu toàn cầu hóa.

Nhận định

Bối cảnh trên đây cho thấy xã hội mà chúng ta đang sống và làm việc đã thay đổi rất nhiều, thay đổi một cách mau chóng và thay đổi trên nhiều bình diện khác nhau. Những thay đổi ảnh hưởng nhiều trên con người và đời sống của người tín hữu và đặt ra nhiều vấn đề nan giải cho đời sống đức tin của người tín hữu, đòi hỏi các hoạt động mục vụ cũng như việc dạy giáo lý của Giáo Hội phải thay đổi để thích nghi với tâm thức và nhu cầu của con người Việt Nam hiện nay, nhưng xem ra các hoạt động của chúng ta chưa đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách này. Chúng ta phải can đảm trực diện với thực trạng này.
12. Đời sống của người Việt hiện nay được nâng cao, phúc lợi của dân chúng được cải thiện; tuy nhiên, họ vẫn phải sống trong lo âu và sợ hãi: lo âu bởi cuộc sống đầy những bất ổn và xáo trộn; sợ hãi vì xã hội đầy những bất công và bạo lực. Người giàu thay vì giúp đỡ, tôn trọng và thăng tiến lại khai thác và bóc lột người nghèo, tình trạng lạm quyền và tham nhũng âm thầm hủy hoại hệ thống chính trị và xã hội, đạo đức bị coi là mối đe dọa cho các hành vi thao túng và hạ thấp phẩm giá con người, sự thánh thiêng của hôn nhân và sự bền vững gia đình bị tấn công, môi trường bị hủy hoại nặng nề.
Sống trong lo âu và sợ hãi, người Việt trở nên phòng thủ và tự vệ, che đậy và giả hình, thiếu tin tưởng và ít cộng tác với người khác, bất hòa và chia rẽ trong mọi ngành nghề, tổ chức xã hội và cả trong các tổ chức tôn giáo. Tâm tính này tạo ra nhiều bất lợi cho đời sống gia đình vì gia đình là một cộng đồng đòi hỏi sự hiệp thông trọn vẹn, sự cởi mở chân thành, tin tưởng và lo lắng cho nhau. Nó cũng tác hại rất lớn đến xã hội vì xã hội là một cộng đồng lớn hơn đòi hỏi mọi thành viên phải tin tưởng để cùng hợp tác với nhau lo cho công ích.
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp người Việt thoát khỏi ngục tù của lo âu và sợ hãi, của mặc cảm tự ti và tâm lý phòng vệ, đồng thời chữa lành và tái tạo một con người mới đầy niềm vui và hy vọng, lạc quan và tin tưởng, chân thành và cởi mở không?
13. Não trạng thế tục hóa (secularism) đang thấm nhập cách nhẹ nhàng vào cách suy nghĩ và cách sống của người tín hữu. Nó là thách đố lớn cho công cuộc Phúc Âm hóa vì hoàn toàn nghịch lại tinh thần phúc âm, nghịch lại đức tin và luân lý kitô giáo, khi tìm cách loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Gắn với não trạng thế tục hóa là não trạng duy vật (materialism), cá nhân (individualism), tương đối (relativism) và hưởng thụ khoái lạc (hedonism); tất cả đang lan tràn và ảnh hưởng trên cách suy tư và hành động của con người Việt Nam.23
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp người tín hữu khám phá ra sự hiện diện đầy yêu thương và quyền năng của Chúa trong cuộc sống để rồi cộng tác với Ngài trong công cuộc biến đổi cuộc sống của mình và xã hội không?

2. Thực tại Giáo Hội Việt Nam

Chúng ta sẽ tìm hiểu thực tại Giáo Hội tại Việt Nam dựa trên các yếu tố dân số, đời sống và sứ vụ.

Về cơ cấu tổ chức

14. Từ năm 1975, đất nước thống nhất, Giáo Hội tại Việt Nam ở hai miền Nam Bắc được xum họp một nhà. Từ 1980, Đại hội các Giám Mục toàn quốc đã được tiến hành hằng năm và Giáo Hội tại Việt Nam muốn là "Hội Thánh Chúa Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam, để phục vụ hạnh phúc của đồng bào"24 và “cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống.25
Nhìn chung, Giáo Hội tại Việt Nam không ngừng đổi mới và phát triển. Số tín hữu tăng từ 2 triệu vào năm 1960 đến 5.2 triệu vào năm 2000 và hơn 6 triệu vào năm 2008.26 Số người theo đạo hàng năm khoảng 30 – 40.000 trong những năm gần đây. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2012, Giáo Hội tại Việt Nam có 4.441 linh mục, 4.195 chủng sinh, 2.679 tu sĩ nam, 17.280 tu sĩ nữ, 59.524 giáo lý viên, gần một triệu đoàn viên các hội đoàn Công giáo Tiến hành và 6.560.879 tín hữu giáo dân,27 trên tổng số 88,78 triệu dân.28
Sau 1960, sáu địa phận khác được thành lập là Đà Nẵng (1963), Xuân Lộc (1966), Phú Cường (1966), Ban Mê Thuột (1967) Phan Thiết (1975), và Bà Rịa (2005), nâng tổng số giáo phận Việt Nam hiện nay lên 26 giáo phận (Giáo tỉnh Hà Nội 10, Huế 6, Sài Gòn 10).

Về đời sống đức tin

15. Nhìn từ bên ngoài, người ta thấy Giáo Hội tại Việt Nam còn rất sinh động: đời sống đạo còn sầm uất vì bầu khí các gia đình còn rất tốt, vẫn còn đông đảo ơn gọi linh mục và tu sĩ, giáo dân còn tích cực tham dự thánh lễ và các giờ đạo đức cũng như các công tác chung của giáo xứ và giáo phận.
Thực tế có nhiều dấu hiệu cho thấy số gia đình công giáo ly dị, số người trẻ công giáo phá thai, nghiện ngập, phạm pháp không phải ít. Số ơn gọi ở các thành phố có xu hướng giảm so với ngoại thành hoặc nông thôn; trong số này, nhiều người thiếu động cơ trong sáng. Số giáo dân, nhất là giới trẻ, tham dự thánh lễ, kể cả thánh lễ Chúa Nhật, và các sinh hoạt đạo đức trong giáo xứ đã giảm nhiều. Nhiều bạn trẻ dự lễ ngày Chúa Nhật chỉ đứng ở ngoài nhà thờ cho có lệ. Cũng có những nơi, những dịp lễ lớn, giới trẻ tham dự còn đông, nhưng “số đông” đó, nếu tính về tỉ lệ thì chỉ là một thiểu số nhỏ của tất cả giới trẻ.29

Về hoạt động truyền giáo

16. Có nhiều cố gắng truyền giáo tại một số giáo phận, nhất là các giáo phận miền Cao nguyên nơi có nhiều anh chị em dân tộc, hoặc những nơi xa xôi như miền Tây.
Tuy nhiên, con số thống kê sau cho thấy tỉ lệ người công giáo trong mấy chục năm qua như dặm chân tại chỗ:
Năm
1970
1990
1993
2004
2010
Dân số
31.993.143
63.286.000
70.257.700
82.320.147
86.927.700
Công giáo
2.679.776
4.341.976
4.641.677
5.667.428
6.187.486
Tỷ lệ
8,37%
6,86%
6,60%
6,88%
7,11%
Công tác tông đồ tại các giáo xứ và nhiều dòng tu chỉ gói ghém trong công tác mục vụ. Chương trình huấn luyện trong các chủng viện, học viện … thiếu môn truyền giáo hoặc có học mà không có hành, có huấn mà không có luyện. Nhìn chung, ý thức và dấn thân truyền giáo tại Việt nam chắc chắn là có nhưng mới chỉ là tinh thần dấn thân của một số cá nhân hay nhóm các tín hữu chứ chưa phải là tinh thần chung của cả Giáo Hội tại Việt Nam.30

Nhận định

Trước thực tại này, Giáo Hội Việt Nam không ngừng “tự vấn lương tâm trong tư cách cộng đồng cũng như trong tư cách cá nhân, xem chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và thi hành hiệu quả hơn sứ mệnh mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu”.31
17. Nhìn vào đời sống người Kitô hữu hiện nay, chúng ta thấy có một khoảng cách khá lớn giữa điều người ta hiểu và điều người ta sống. Ðời sống đạo tập trung vào các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong. Ở Việt Nam, hơn 60% dân số dưới tuổi 30. Đa số là những người trẻ và những người trẻ này có xu hướng chạy theo cái đẹp qua sự say mê cuồng nhiệt đối với các thần tượng như cầu thủ, diễn viên, người mẫu và sở thích của họ là ham chuộng thời trang, âm nhạc, thể thao như biểu hiện của cái đẹp. Trong khi đó, chúng ta hô hào họ hãy xóa bỏ thần tượng, sống đơn giản, nghèo khó, nhưng lại chưa giới thiệu cho họ một Thiên Chúa là chủ của cái đẹp và chưa giúp họ hiểu tinh thần nghèo khó của Ðức Giêsu thật sự là gì.32
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp người Kitô hữu gặp gỡ và kết hợp với Chúa Giêsu hiện diện trong các hoạt động phụng vụ cũng như trong cuộc sống thường ngày, một trải nghiệm thiêng liêng cho phép họ biến đổi cuộc sống của mình và góp phần biến đổi xã hội không? Liệu cách giảng dạy của chúng ta hiện nay có đáp ứng cách thỏa đáng những nhu cầu mới đang hình thành, có thích hợp với não trạng đang chuyển biến của xã hội, nhất là của giới trẻ không?
18. Phần đông người tín hữu Việt Nam chưa nhận thức và quan tâm đầy đủ về việc truyền giáo. Nhiều người vẫn còn cho rằng truyền giáo là công việc của linh mục và tu sĩ chứ không phải là bổn phận của chính mình. Nhiều vị có trách nhiệm lại cho rằng truyền giáo là mở những lớp giáo lý dự tòng để dạy cho người muốn theo đạo những bài giáo lý soạn sẵn hay học thuộc lòng một số kinh, là lập đạo binh Đức Mẹ để thăm nom và khuyến dụ người ta theo đạo. Mục vụ truyền giáo tại Việt Nam còn thiếu tổ chức, định hướng và liên kết trong một kế hoạch chung.33
Thử hỏi cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có “mở ra cho sự năng động truyền giáo và làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu biết hiện diện với tư cách là người Kitô hữu trong xã hội, trong đời sống nghề nghiệp, văn hóa và xã hội… hiệp thông một cách có hiệu quả với những người thuộc các tôn giáo khác… biết dung hòa và phân biệt giữa ‘loan báo Đức Kitô’ và ‘đối thoại liên tôn’ không?34

3. Thực tại dạy giáo lý tại Việt Nam

Trước những biến chuyển đang thay đổi bộ mặt của xã hội và ảnh hưởng đến đời sống đạo của Dân Chúa, Giáo Hội tại Việt Nam ra sức giáo dục đức tin cho các tín hữu, chủ yếu qua việc dạy giáo lý. Mặc dù công tác mục vụ này đã gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp, nhưng vẫn còn nhiều giới hạn cần khắc phục.

Về mục tiêu

19. Việc dạy giáo lý nhắm trình bày nội dung đức tin có hệ thống, trung thành với giáo huấn và truyền thống của Giáo Hội, hơn là dẫn đưa người thụ giáo đến gặp gỡ Chúa để khám phá ra khuôn mặt của Chúa Giêsu và cảm thấy nhu cầu phải dâng hiến chính mình cho Chúa hoặc giúp cho họ hiểu và chấp nhận những hệ luận của đức tin cho cuộc sống để tạo nên một nếp sống, phong tục và văn hóa dưới ánh sáng của đức tin.

Về nội dung

20. Giáo lý viên thường quy chiếu vào các nguồn Thánh Kinh và Thánh Truyền được giải thích bởi Huấn quyền, nhưng chưa vận dụng được các chứng từ sống động trong đời sống Giáo Hội, các giá trị hay những nét đẹp trong nền văn hóa Việt Nam vốn đòi hỏi giáo lý viên phải có khả năng giải thích các dấu chỉ thời đại (?!), để khám phá ra sự hiện diện và kế hoạch của Thiên Chúa dưới ánh sáng của Lời.

Về hình thức

21. Việc dạy giáo lý bằng phương pháp hỏi-thưa phát triển song hành với việc dạy giáo lý bằng phương pháp trình bày, theo cách thức “dạy dỗ, bảo ban” hoặc theo cách thức “đối thoại, đồng hành”. Cách thức đầu thường sử dụng quyền lực cứng (biện pháp kỷ luật) còn cách thức sau vận dụng quyền lực mềm (thuyết phục bằng các giá trị). Do quan tâm đến nội dung hơn là người thụ giáo nên “một số nơi, giáo lý vẫn bị xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc dạy giáo lý chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động của người rao truyền”.35

Về chủ thể

22. Phần đông các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo xứ đều coi trọng việc giáo dục đức tin và tích cực tham gia vào việc dạy giáo lý với tinh thần tự nguyện; nhiều giáo lý viên giáo dân phục vụ cho huấn giáo như những thiện nguyện viên trong một thời gian lâu dài.
Tuy nhiên, các linh mục thường giao phó hết việc dạy giáo lý cho tu sĩ và giáo dân nhưng ít quan tâm đến việc bồi dưỡng kiến thức và đời sống đức tin cho họ(?!). Nhiều giáo lý viên giáo dân chưa được huấn luyện đầy đủ, chưa thực sự “dạy điều mình tin và thực hành điều mình dạy” và chưa được hỗ trợ thỏa đáng về vật chất cũng như tinh thần.

Về đối tượng

23. Việc dạy giáo lý chủ yếu dành cho thiếu nhi chuẩn bị xưng tội, rước lễ lần đầu và thêm sức, dự tòng chuẩn bị gia nhập Giáo Hội và các đôi chuẩn bị lãnh nhận bí tích hôn phối. Trong những năm gần đây, anh chị em dân tộc cũng được quan tâm và chăm lo học giáo lý nhiều hơn.
Tuy nhiên, giáo lý dành cho người trẻ và người trưởng thành chưa được phát triển, giáo lý dành trong gia đình cũng như cho những người có hoàn cảnh đặc biệt chưa được quan tâm. Sau khi lãnh nhận các bí tích khai tâm và hôn phối, các tân tòng và các đôi hôn phối hoặc không được tiếp tục quan tâm và nâng đỡ hoặc không thiết tha học hỏi và đào sâu đức tin.

Về môi trường

24. Các gia đình và giáo xứ phần đông còn giữ được tinh thần đạo đức truyền thống, bầu khí thiêng liêng thuận lợi cho việc nuôi dưỡng và phát huy đời sống đức tin của các tín hữu. Các bậc làm cha mẹ khuyến khích và hỗ trợ cho con cái tham gia dạy và học giáo lý.
Việc dạy giáo lý trong gia đình hiện nay dường như là con số không, việc dạy giáo lý trong giáo xứ thường là việc của giáo lý viên hơn là của cộng đoàn. Việc dạy giáo lý còn thu hẹp trong “lớp học”, chưa mở ra cho cộng đoàn và vươn tới mọi người trong xã hội để nhận diện các vấn đề và tìm câu trả lời cách cụ thể, hầu có thể đáp ứng những nhu cầu mới đang hình thành.

Nhận định

25. Trong khi người tín hữu Việt Nam phải chống chọi với não trạng thế tục hóa đang thấm nhiễm dần vào đời sống đức tin, não trạng “muốn gạt bỏ Thiên Chúa, nhưng tận sâu xa, đó lại là một sự trống rỗng to lớn khao khát được lấp đầy bằng chân lý và tình thương của Thiên Chúa. Nhân loại khao khát nước đem lại sự sống, nhưng thế giới lại có quá nhiều nguồn nước đục ô nhiễm (x. Sứ điệp, s.1), mà việc dạy giáo lý lại bị xem là thuyết giáo khô khan với những công thức khô cứng và xa lạ với truyền thống văn hóa thì thách đố lớn nhất của huấn giáo tại Việt Nam là chuyển trọng tâm từ huấn luyện kiến thức sang xây dựng tương quan với Chúa và tha nhân.
Liệu cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có dẫn người tín hữu đến gần Thiên Chúa hơn, Đấng duy nhất có thể lấp đầy khát vọng sâu xa trong lòng họ không?
26. Gắn liền với xã hội tục hóa là xã hội tiêu thụ, trong xã hội này con người bị mê hoặc bởi lối sống hưởng thụ và ích kỷ, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống những giá trị tôn giáo, kết cuộc là đạo đức suy thoái, lương tâm bị coi rẻ và nhân phẩm bị xúc phạm. Sự chuyển biến này đang ảnh hưởng sâu xa đến đời sống đức tin của người tín hữu, thế nhưng chúng ta vẫn dạy giáo lý theo lối cũ, xa rời các thực tại xã hội. Thoát khỏi khuôn khổ của một lớp học để vươn ra đời sống cộng đoàn cũng như vươn tới các vấn đề xã hội cũng là một thách đố không nhỏ đối với huấn giáo tại Việt Nam.
Liệu cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp các tín hữu khám phá ra sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã trỗi dậy từ cõi chết và không ngừng “làm cho mọi sự nên mới” (Kh 21,5), và nghe được lời thách đố của Ngài “có một cái nhìn mới về cuộc sống, sống những giá trị mới và đi vào những tương giao mới với tha nhân như những anh chị em của nhau” không?
27. Trong một đất nước đa phần là người trẻ, những con người say mê khoa học kỹ thuật qua việc tìm tòi và học hỏi, say mê cái đẹp qua việc chạy theo các thần tượng và bị mê hoặc bởi sự chiếm hữu và hưởng thụ, nhưng cách dạy giáo lý của chúng ta hiện nay vẫn chưa thu hút và hấp dẫn được người trẻ. Làm thế nào để dạy giáo lý cách sinh động và hấp dẫn hơn vẫn là một thách đố gay go đối với giáo lý viên chúng ta.
Liệu phương pháp, ngôn ngữ và phương tiện mà chúng ta sử dụng để dạy giáo lý cho người trẻ có mới mẻ và thích hợp với tâm thức của họ không? Lời Chúa có được diễn đạt đúng hơn, rõ hơn, sống động và hợp thời hơn không?
28. Sống trong một đất nước có nhiều dân tộc, nhiều nền văn hoá và nhiều tôn giáo khác nhau, thậm chí vô thần, giáo lý viên không những phải thông thạo về Lời Chúa mà còn phải thấu hiểu các giá trị văn hóa của dân tộc, các chân lý tiềm tàng nơi các tôn giáo và các vấn đề nhân sinh để có thể đồng hành với mọi người trong cuộc lữ hành hướng về một chân lý cứu độ duy nhất.
Liệu cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay có giúp cho các tín hữu đối thoại với đồng bào của mình cách khiêm nhu, bao dung và cảm thông hơn là kết án và loại trừ không? 
            Chúng ta xác tín rằng những thách đố trên có thể trở thành cơ hội thuận tiện cho Giáo Hội tại Việt Nam canh tân việc dạy giáo lý, nhờ đó, Giáo Hội có thể thi hành hiệu quả hơn sứ vụ yêu thương và phục vụ đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu cho đồng bào của mình. Điều này đòi hỏi chúng ta phải duyệt xét lại cách thức dạy giáo lý của chúng ta hiện nay bằng cách nhìn vào đường hướng chung của Giáo Hội về huấn giáo.

CHƯƠNG II

ĐƯỜNG HƯỚNG CỦA GIÁO HỘI VỀ HUẤN GIÁO

29. Chúng ta nhìn lại đường hướng của Giáo Hội hoàn vũ về việc dạy giáo lý kể từ Thượng Hội Đồng Giám Mục 1974 và Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi - 1975) đến THĐGM 2012 và tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium - 2013). Trước những thách đố cũng như cuộc khủng hoảng gây ra bởi môi trường văn hóa hiện nay, Giáo Hội đã duyệt xét lại việc dạy giáo lý trong toàn bộ sứ mạng của Giáo Hội là Loan Báo Tin Mừng, đặc biệt phục vụ cho công cuộc “Tân Phúc Âm hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo”.

1. Dạy giáo lý trong viễn tượng Phúc Âm Hóa

30. Ngay từ thập niên 50, nhờ nghiên cứu lịch sử thời các giáo phụ và vận dụng công trình khảo cứu của các khoa xã hội nhân văn, phong trào Canh tân Giáo lý đã được hình thành từ Munich (Đức - 1925) lan rộng sang các nước khác. Với phong trào này, việc DGL được canh tân trên nhiều bình diện: a/ về đối tượng (từ dự tòng đến người lớn, trẻ em và các tín hữu), b/ về mục đích (từ đạo lý căn bản đến đào sâu đức tin), c/ về phương pháp (từ phương pháp học thuộc lòng và giải thích đến phương pháp tâm lý và hoạt động), d/ về nội dung (từ dạy kiến thức hay luân lý đến loan báo sứ điệp Kitô giáo), e/ về phương tiện (ngoài thủ bản còn có kinh thánh, phụng vụ, chứng tá…).36
31. Cho dù cuộc canh tân này đã đem lại cho huấn giáo một sinh khí mới trong Giáo Hội, nó cũng chỉ là nỗ lực của một số Giáo Hội địa phương, chưa phải là nỗ lực chung của cả Giáo Hội. Nhiều nơi trong Giáo Hội vẫn thu hẹp việc dạy giáo lý trong việc dạy đạo lý hay luân lý nhằm bênh vực đạo hay giữ đạo hơn là sống đạo và truyền đạo; giáo lý viên “chỉ truyền dạy những tín điều phải tin và những luật phải giữ … qua những công thức khô cứng, xa lạ với truyền thống văn hóa, và có vẻ dửng dưng với các vấn nạn của thời đại, hầu như trong suốt thời gian ‘học giáo lý’, người dự tòng không một lần được hướng dẫn đến gặp gỡ được một Đức Kitô, đối tượng của đức tin, một Đức Kitô nhập thể và nhập thế, nhập thể để cùng chia sẻ thân phận với con người, nhập thế để đưa ra những lời giải đáp cho các vấn nạn của con người trong bất cứ thời đại nào, vì Người là Lời yêu thương của Thiên Chúa được mạc khải cho con người cho mọi nơi và mọi lúc”.37
32. Theo đề nghị của Công Đồng Vaticanô II, Bộ Giáo Sĩ đã soạn Hướng dẫn việc Dạy Giáo lý (1971) nhằm hướng dẫn các HĐGM soạn thảo sách giáo lý riêng. Sau đó, hàng loạt văn kiện liên quan đến huấn giáo được ban hành: Đức Giáo Hoàng Phaolô VI với tông huấn Loan Báo Tin Mừng (1975), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với tông huấn Catechesi Tradendae (1979) là kết quả của Thượng hội đồng Giám mục 1977 về việc dạy giáo lý trong thời đại của chúng ta; với sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (1992) là kết quả của THĐGM 1974 về việc Loan Báo Tin Mừng và 1985 kỷ niệm 20 năm bế mạc Công Đồng, Bộ Truyền bá Phúc âm với Hướng dẫn dành cho Giáo lý viên (1993) bàn về ơn gọi, căn tính và linh đạo của giáo lý viên cũng như việc tuyển chọn và đào tạo giáo lý viên. Vì thế, Bộ Giáo Sĩ đã phải cập nhật hóa Hướng dẫn việc Dạy Giáo lý (1971) bằng cách soạn Hướng dẫn Tổng quát việc Dạy Giáo lý (1997), một văn kiện được cả Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI và Phanxicô trân trọng nhắc tới trong Tông huấn Lời Chúa38 và Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng.39
33. Trong văn kiện này, Bộ Giáo Sĩ một lần nữa đặt huấn giáo trong viễn tượng Loan Báo Tin Mừng theo tông huấn Evangelii Nuntiandi 1975; từ đó, xác định lại bản chất, mục đích, nhiệm vụ, nguồn mạch, nội dung, sư phạm của việc dạy giáo lý và việc tổ chức các hoạt động giáo lý. Hướng Dẫn này cống hiến cho các Giáo Hội địa phương một cái nhìn chung về huấn giáo, nhờ đó, có thể thống nhất và hợp tác với nhau trong việc thi hành thừa tác vụ giáo lý.

Bản chất của giáo lý

34. Đức Thánh Cha Phaolô VI, trong tông huấn Loan báo Tin Mừng (EN) không chỉ sử dụng thuật ngữ Phúc Âm hóa hay Loan báo Tin Mừng (Evangelizatio) theo nghĩa hẹp là công bố Tin Mừng cho lương dân, mà còn dùng nó theo nghĩa rộng là đem men Tin Mừng vào trong hết mọi lãnh vực của cuộc sống, là biến đổi mọi thực thể nhân loại cho phù hợp với Tin Mừng, từ lối suy tư cá nhân đến lối sinh hoạt của các dân tộc.40 Hướng dẫn Tổng quát việc dạy giáo lý 1997 sử dụng thuật ngữ Loan báo Tin Mừng (LBTM) theo nghĩa rộng: “Loan báo, làm chứng, giáo huấn, các bí tích, yêu tha nhân, thâu nạp môn đệ: tất cả những sắc thái ấy đều là những con đường và phương tiện cho việc truyền đạt Phúc Âm và cấu thành những yếu tố của việc LBTM […]. Những thừa tác viên của việc LBTM phải biết hành động với một “cái nhìn tổng thể” về chính việc LBTM và đồng hóa nó với toàn bộ sứ mạng của Giáo Hội”.41 “Vì thế, LBTM phải được quan niệm như tiến trình mà qua đó Hội Thánh loan báo và phổ biến Tin Mừng cho toàn thế giới dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần”.42
35. Trong tiến trình loan báo Tin Mừng, dạy giáo lý DGL là một thời điểm và là thời điểm chính yếu: «Việc dạy giáo lý nằm trong sứ mạng Loan báo Tin Mừng của Giáo Hội và được coi là ‘thời điểm’ chính yếu, nó kín múc trong công cuộc LBTM động lực truyền giáo đã đem lại cho nó sự phong phú nội tại và căn tính đặc thù».43 Thời điểm của việc DGL là thời gian để phát huy cuộc hoán cải ban đầu: “Việc DGL, ‘khác với lời loan báo Tin Mừng đầu tiên’, nhằm phát huy và làm cho sự trở lại đầu tiên được chín chắn, qua việc giáo dục đức tin cho người trở lại và tháp nhập họ vào cộng đoàn Kitô giáo”.44
36. Trong ý hướng này, “việc dạy giáo lý là một hình thức đặc biệt của tác vụ Lời Chúa của Giáo Hội làm cho sự hoán cải ban đầu được hoàn hảo, làm cho việc tuyên xưng đức tin trở nên sống động, minh nhiên và hữu hiệu”.45 Lời Chúa mà Giáo Hội rao giảng là Lời Chúa mà Giáo Hội đã cưu mang trong lòng và thể hiện trong cuộc sống: “Theo gương Mẹ Chúa Giêsu, Giáo Hội trung thành gìn giữ Phúc Âm trong lòng mình, rồi loan báo, cử hành, sống và rao truyền Phúc Âm đó bằng việc dạy giáo lý cho tất cả những ai quyết định đi theo Chúa Giêsu Kitô”.46
37. Như thế, dạy giáo lý không đơn thuần là việc truyền bá kiến thức tôn giáo, mà là việc đào tạo người Kitô hữu phát triển một đức tin trưởng thành và toàn diện.47 Việc này không thể hoàn tất một sớm một chiều nhưng đòi hỏi “một tiến trình hoán cải thường xuyên đến suốt đời”.48 Đặc tính này dẫn đến việc coi dạy giáo lý người lớn, những người có khả năng đón nhận đức tin với đầy đủ trách nhiệm, là hình thức dạy giáo lý chính yếu và kiểu mẫu cho mọi hình thức dạy giáo lý khác.49

Mục đích của việc dạy giáo lý

38. “Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là làm cho con người không những tiếp xúc, mà còn được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu Kitô”.50 Sự thông hiệp với Chúa Giêsu Kitô dẫn họ đến sự hiệp thông với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, hiệp thông với Ba Ngôi chí thánh.
Theo mục đích này, việc dạy giáo lý phải luôn qui Kitô nghĩa là luôn giới thiệu và tìm kiếm Chúa Giêsu Kitô và qui Ba Ngôi nghĩa là dẫn đến việc tuyên xưng và kết hợp với Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần.51

Những nhiệm vụ của việc dạy giáo lý

39. Mục đích của việc dạy giáo lý đạt được qua các nhiệm vụ khác nhau nhưng bao hàm lẫn nhau; đó là các nhiệm vụ sau: giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng vụ, huấn luyện luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn và khai tâm cho việc truyền giáo.52
Các nhiệm vụ này đan quyện với nhau và cắm rễ sâu vào kinh nghiệm con người. Chúng được thực hiện bằng hai phương thế chính: lắng nghe sứ điệp Tin Mừng và thực thi sứ điệp ấy trong đời sống luân lý và cầu nguyện. Nhờ được vun trồng đủ mọi khía cạnh phong phú và đa dạng như vậy mà đức tin Công giáo được phát triển trọn vẹn và đời sống Kitô hữu đạt tới sự trưởng thành.

Nguồn mạch của việc dạy giáo lý

40. Nguồn mạch chính của giáo lý là Lời Chúa được trình bày trong Thánh Kinh và Thánh Truyền: “Việc dạy giáo lý luôn luôn kín múc nội dung nơi nguồn mạch sống động là Lời Chúa, được loan truyền trong Thánh Truyền và Thánh Kinh”.53 Lời Chúa là nguồn quan trọng nhất để loan truyền và giáo dục đức tin, vì nó thực sự là lời của Thiên Chúa.
Những nguồn mạch sống động của việc dạy giáo lý xuất phát từ Lời Chúa và giải thích Lời Chúa như những bản văn của phụng vụ, những tác phẩm của các Giáo Phụ, những hướng dẫn của Huấn Quyền, những biểu thức đức tin, những chứng tá của các Thánh và những suy tư thần học…, tất cả đều cung cấp cho việc dạy giáo lý những tiêu chuẩn để truyền đạt sứ điệp của mình.54

Nội dung của việc dạy giáo lý

41. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là “điểm quy chiếu để giáo lý viên trình bày một cách chính thống nội dung đức tin”,55 vì sách giáo lý này “trình bày một cách có hệ thống và tổng hợp những nội dung cốt yếu và căn bản của đạo lý công giáo về mặt đức tin cũng như về mặt luân lý, dưới ánh sáng của Công Đồng Vaticanô II và toàn bộ Truyền thống của Hội Thánh”.56 Sách này “xoay quanh bốn chiều kích cơ bản của đời sống Kitô hữu: tuyên xưng đức tin, cử hành phụng vụ, đời sống luân lý theo Tin Mừng và việc cầu nguyện”.57 Bốn chiều kích này đều phát xuất từ mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô “là đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6), đường dẫn chúng ta tới đời sống mới trong Ba Ngôi Thiên Chúa.58

Sư phạm Đức tin

42. Việc dạy giáo lý vừa phải trung thành với Lời Chúa vừa phải trung thành với con người, cho nên phương pháp và nội dung giáo lý liên hệ mật thiết với nhau. Phương pháp trình bày Đức Tin phải “thích hợp với bản chất của sứ điệp, với nguồn gốc và ngôn ngữ của nó, với những hoàn cảnh cụ thể của cộng đoàn Hội Thánh và điều kiện của mỗi người tín hữu mà việc dạy giáo lý nhắm đến”.59
Nhiệm vụ của việc dạy giáo lý không những làm cho Lời “vang dội” nơi con người, nhưng còn trợ giúp họ tích cực đáp lại Lời: “Một đàng, giáo lý viên giúp cho con người mở ra với chiều kích tôn giáo của đời sống, đàng khác, một cách nào đó họ giới thiệu Tin Mừng, để rồi Tin Mừng thấm nhiễm và biến đổi những thái độ của trí tuệ, lương tâm, tự do, hành động của con người, làm cho cuộc đời trở thành một hiến thân, theo gương Chúa Giêsu Kitô. Với mục đích ấy, giáo lý viên cũng cần đến những khoa về giáo dục, phù hợp với tinh thần Kitô giáo”.60
Trong việc gặp gỡ Lời, thái độ căn bản của con người là lắng nghe; đó chính là thái độ của người vâng phục: “Đối với Thiên Chúa, Đấng mạc khải, con người phải bày tỏ “sự vâng phục bằng đức tin” (DV 5). Cuộc gặp gỡ như thế được thực hiện khi mà người ta dành một khoảng không gian cho Đấng muốn đến gặp gỡ con người. Vì thế, một đàng, giáo lý viên phải trình bày Lời trong tính tổng thể và quy mô, toàn bộ và không thay đổi, không được chắp vá hoặc dùng Lời Chúa như phương tiện; đàng khác, phải lưu ý đến nhân cách và khả năng của tham dự viên để Lời Chúa có thể chạm đến tâm hồn của họ, nơi mà toàn bộ sức mạnh được thâu tóm nên một.
43. Muốn được như thế, theo Hướng dẫn việc dạy giáo lý 1971, giáo lý viên cần thực hiện những việc sau:
Trung thành với Thiên Chúa nghĩa là biết chờ đợi và tôn trọng hoạt động của Thánh Thần với những đề nghị và ơn ban, nhờ sự thinh lặng nội tâm, mong đợi… Chính Thiên Chúa mới là Đấng mạc khải, thúc giục và làm cho lớn lên, còn giáo lý viên chỉ là người được gọi để làm chứng cho sứ điệp Lời Chúa.
Trung thành với con người nghĩa là việc dạy giáo lý phải nhắm đến con người để hướng dẫn họ lãnh hội Tin Mừng nhờ nội tâm hóa các giá trị của nó, hướng đến sự thể hiện cá nhân hay diễn tả lại mầu nhiệm trong cuộc sống thường ngày.
Trợ giúp tiến trình xã hội hóa nghĩa là giúp mở ra cho kinh nghiệm cộng đoàn và xã hội, giúp họ hòa nhập vào sự năng động của đời sống cộng đoàn tín hữu cũng như xã hội.
Thực hiện tiến trình cá nhân hóa trong học tập cũng như kinh nghiệm đức tin, trong nhịp độ phát triển, trong những thói quen, trong những khuynh hướng riêng, trong những niềm vui và sự đau khổ…
Chú ý đến phương pháp hoạt động để có thể trình bày sứ điệp Tin Mừng cách sống động, giúp học viên dễ lãnh hội và đáp lại lời Chúa mời gọi.
44. Giáo Hội không dùng một phương pháp nào duy nhất, mà dùng nhiều phương pháp miễn là chúng phù hợp với phương pháp sư phạm của Thiên Chúa, thích hợp với nội dung giáo được giảng dạy. Qua nhiều thế kỷ, nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng tùy theo tài năng của các giáo lý viên và các học viên.
Khi nói về cách dạy giáo lý, người ta thường nói đến phương pháp quy nạp và diễn dịch. Phương pháp quy nạp hệ tại trình bày những sự kiện trong lịch sử cứu độ cũng như trong cuộc sống thường ngày để khám phá ra mạc khải của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Phương pháp diễn dịch hệ tại giải thích các sự kiện khởi đi từ các nguyên nhân của chúng. Phương pháp trước bắt đầu từ những vấn đề và những hoàn cảnh của con người, được soi dẫn bằng ánh sáng Lời Chúa; phương pháp sau bắt đầu từ việc loan báo sứ điệp, đem ra thực hành trong cuộc sống. Cả hai phương pháp, hai cách tiếp cận đều hợp pháp và bổ túc cho nhau.61
45. Chúng ta phải phân tích và định giá cẩn thận vai trò của kinh nghiệm con người trong việc dạy giáo lý vì kinh nghiệm giúp người ta hiểu giáo lý đức tin dễ dàng. Thiên Chúa cũng tỏ mình ra cho mỗi người qua kinh nghiệm sống của họ. Giáo Lý viên có nhiệm vụ giúp học viên nhìn đến các kinh nghiệm sống hằng ngày dưới lăng kính của Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh. Chỉ có như thế việc dạy giáo lý mới dẫn đến một cuộc sống nội tâm Kitô sâu xa.
46. Việc học thuộc lòng giúp học viên thu nhận vào bản thân các chân lý đức tin. Việc học thuộc lòng các công thức chính yếu của đức tin rất hiệu quả sau khi đã hiểu tường tận chúng. Trong số các công thức của đức tin, học viên cần phải nhớ những đoạn Thánh Kinh chính, các kinh quan trọng trong Phụng Vụ, và các kinh thường nhật (Dấu Thánh Giá, Kinh Tin Kính của các Tông Đồ, Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Ăn Năn Tội …).

Chủ thể của việc dạy giáo lý

47. Giáo Hội là chủ thể đầu tiên của việc dạy giáo lý, cụ thể trong Giáo Hội địa phương thì “các giám mục là những người có trách nhiệm đầu tiên về việc dạy giáo lý và phải là những giáo lý viên tuyệt vời”.62 “Trong giáo phận, dạy giáo lý là một công việc duy nhất, được hoàn thành nhờ sự hợp tác giữa các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, trong sự thông hiệp với giám mục. Tất cả cộng đoàn phải cảm thấy có trách nhiệm đối với công việc này”.63

Đối tượng của việc dạy giáo lý

48. Mọi tín hữu đều có nhu cầu và quyền lợi được tiếp nhận một nền giáo lý vững chắc:64 “Mọi người đã được rửa tội, vì được Chúa mời gọi tiến đến một đức tin trưởng thành, đều cần và có quyền được tiếp nhận một huấn giáo thích hợp. Vì thế, bổn phận hàng đầu của Giáo Hội là phải cung cấp theo nhu cầu. Về vấn đề này, nên nhắc lại ngay rằng đối tượng đón nhận Tin Mừng ‘là một con người cụ thể, trong lịch sử đã bén rễ sâu vào một hoàn cảnh nhất định và không ngừng chịu ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh tâm lý, xã hội, văn hóa và tôn giáo, dù họ có ý thức hay không. Trong việc dạy giáo lý, người đón nhận phải có thể tỏ ra là một chủ thể tích cực, ý thức và cùng chịu trách nhiệm, chứ không như một máy thu thanh im lặng và thụ động”.65 Muốn được như thế, việc dạy giáo lý phải được tổ chức theo những cấp độ khác nhau (từ căn bản đến chuyên sâu), theo sự phát triển tâm sinh lý của học viên (theo lứa tuổi), và theo những bối cảnh văn hóa, xã hội khác nhau (theo từng hoàn cảnh khác nhau).

Tổ chức việc dạy giáo lý

Những người thừa hưởng việc dạy giáo lý 
49. Chúa Giêsu “là giáo lý viên về Nước Thiên Chúa cho mọi người không phân biệt: lớn hay bé, giầu hay nghèo, khỏe hay yếu, gần hay xa, Do Thái hay lương dân, đàn ông hay đàn bà, người công chính hay kẻ tội lỗi, dân chúng hay chính quyền, cá nhân hay tập thể … Ngài quan tâm đến từng người và lo lắng đến những nhu cầu của họ”.66
Tiếp nối công trình cũng như tinh thần của Chúa Giêsu, Giáo Hội không ngừng quan tâm đến con người với những hoàn cảnh và nhu cầu khác nhau đồng thời mở ra những nẻo đường khác nhau để gặp gỡ họ và thích nghi cách dạy giáo lý cho phù hợp với tâm thức cũng như nhu cầu của họ.
Do đó, có nhiều cách dạy giáo lý khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong những hoàn cảnh khác nhau: giáo lý dự tòng và tân tòng nhằm khơi dậy đức tin ban đầu, giáo lý căn bản nhằm tăng triển đức tin của người đã được rửa tội, giáo lý lứa tuổi nhằm thích ứng với sự phát triển tâm sinh lý của người học giáo lý, giáo lý theo từng hoàn cảnh nhằm thích ứng với những bối cảnh xã hội và văn hóa khác nhau. Nhờ đó, mọi tín hữu - từ ấu nhi, thiếu nhi và thiếu niên đến giới trẻ, người cao tuổi và những người có hoàn cảnh đặc biệt - đều có thể tiếp nhận một nền giáo lý vững chắc và thích hợp.67
Những người thi hành thừa tác vụ dạy giáo lý
50. Trong giáo phận, dạy giáo lý là công việc duy nhất, được hoàn thành nhờ sự hợp tác giữa các linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân, trong sự thông hiệp với giám mục. Tất cả cộng đoàn Kitô hữu phải cảm thấy có trách nhiệm đối với dạy giáo lý và tất cả đều phục vụ cho thừa tác vụ duy nhất của Giáo Hội.68
51. Các giám mục là những người có trách nhiệm đầu tiên về việc dạy giáo lý và phải là những giáo lý viên tuyệt vời. Các ngài đảm nhận trách nhiệm hướng dẫn tối cao việc dạy giáo lý trong giáo phận: phải dành ưu tiên cho việc dạy giáo lý, quan tâm đến sự xác thực của lời tuyên xưng đức tin, khuyến khích mọi người tham gia vào việc dạy giáo lý, lo cho các giáo lý viên được đào tạo phù hợp với nhiệm vụ của mình, đặc biệt là về giáo lý cũng như các nguyên tắc tâm lý và sư phạm, thiết lập trong giáo phận một dự án tổng quát, rõ ràng và mạch lạc về huấn giáo.69
52. Do bí tích truyền chức thánh, các linh mục là những nhà giáo dục đức tin. Là cộng tác viên của giám mục, các ngài khuyến khích ơn gọi và công việc của các giáo lý viên, thúc đẩy trong cộng đoàn tinh thần trách nhiệm chung đối với việc dạy giáo lý, chăm lo cho việc dạy giáo lý, khuyến khích các ơn gọi phục vụ cho việc dạy giáo lý, đảm bảo việc dạy giáo lý của cộng đoàn hòa hợp với chương trình mục vụ của giáo phận.70
53. Kinh nghiệm Kitô giáo đầu tiên của trẻ em được thể hiện trong tương quan giữa các em và cha mẹ. Không gì có thể thay thế được việc khơi dậy ý thức tôn giáo cho tuổi thơ trong gia đình. Kinh nghiệm này sẽ được đào sâu nếu như cha mẹ biết giải thích và giúp con cái nội tâm hóa các bài học giáo lý mà chúng nhận được nơi cộng đoàn giáo xứ. Cha mẹ nhận được nơi bí tích Hôn Phối ân sủng và trách nhiệm giáo dục đức tin cho con cái. Cha mẹ phải được giúp đỡ để chu toàn nhiệm vụ này qua những cuộc tiếp xúc cá nhân, những cuộc gặp gỡ, những khóa học hỏi và các chương trình giáo lý dành cho người trưởng thành.71
54. Sự tham gia vào hoạt động giáo lý của các tu sĩ phát sinh từ cuộc sống theo các lời khuyên Phúc Âm. Sự đóng góp của họ vào việc dạy giáo lý không thể thay thế bằng các linh mục hay giáo dân. Nhiều dòng tu được thành lập để lo việc giáo dục đức tin cho các trẻ em và thanh thiếu niên, nhất là những người bị bỏ rơi. Các đặc sủng khác nhau của các dòng tu không làm mất đi tính đặc thù của hoạt động giáo lý mà còn làm cho nó trở nên phong phú và để lại những dấu ấn sâu sắc về tôn giáo, xã hội và sư phạm.72
55. Hoạt động giáo lý của giáo dân có tính cách riêng do ơn gọi sống giữa thế gian và biến đổi nó như ý Chúa muốn, ơn gọi này phát xuất từ bí tích Rửa Tội và được củng cố bằng bí tích Thêm Sức. Nhờ hai bí tích này, họ được thông phần vào các chức vụ của Đức Kiô; một số được mời gọi đảm nhận trách vụ giáo lý viên. Có những giáo lý viên chỉ dạy giáo lý trong một thời gian ngắn, nhưng cũng có nhiều người kiên trì hy sinh với lòng quảng đại cho công việc này. Sự phục vụ và cộng tác của họ không kém phần quý giá.73
Việc đào tạo giáo lý viên
56. Giáo phận phải dành ưu tiên tuyệt đối cho việc đào tạo giáo lý viên giáo dân,74 cũng như đào tạo về dạy giáo lý cho các linh mục và cả các đại chủng sinh nữa vì họ cung ứng một hỗ trợ đặc biệt và cần thiết cho công cuộc giáo dục đức tin của Giáo Hội;75 phải đào tạo giáo lý viên cho các độ tuổi và hoàn cảnh khác nhau;76 phải đào tạo kỹ lưỡng, toàn diện và chuyên biệt để họ nên thành thạo, đảm bảo chất lượng và hiệu quả cho việc dạy giáo lý77 vì phẩm cách kitô hữu tốt đẹp nơi người giáo lý viên quan trọng hơn thủ bản giáo lý và những công cụ làm việc khác;78 phải đào tạo để mỗi nơi, mỗi cấp bậc có một số giáo lý viên chuyên nghiệp, dưới sự hướng dẫn của các mục tử và của tổ chức huấn giáo;79 và phải đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các giáo lý viên cho người trưởng thành,80 vì giáo lý cho người lớn là hình thức dạy giáo lý ưu việt nhất.81
57. Việc đào tạo này có mục đích giúp giáo lý viên ý thức về ơn gọi cao quý và chuyên biệt của mình trong Giáo Hội;82 giúp họ hiểu biết các mầu nhiệm kitô giáo và trở nên người môn đệ chân chính của Chúa Kitô, tham dự vào sứ mạng cứu rỗi của Ngài;83 giúp họ có đủ khả năng và tư cách để loan báo Chúa Giêsu Kitô và cuộc đời của Ngài trong lịch sử cứu độ, vì việc dạy giáo lý phải mang tính cách quy Kitô cách rõ nét;84 và loan báo nhân danh Giáo Hội.85
58. Các ứng viên được tuyển chọn vào trách nhiệm giáo lý viên theo các tiêu chuẩn đầy đủ, chính xác và dễ phối kiểm do quyền bính của Giáo Hội địa phương thẩm định và đề ra.86 Họ phải được đào tạo để có được sự thống nhất và hài hòa trong nhân cách của giáo lý viên nghĩa là đạt đến sự thống nhất đời sống trên các bình diện thiêng liêng, thế tục và tông đồ;87 và có được một đức tin sâu sắc, gắn bó với Chúa Kitô và Giáo Hội, đồng thời nhạy cảm với các vấn đề của xã hội.88
59. Tóm lại, phải đào tạo giáo lý viên thế nào để họ có thể là thầy dạy, là nhà giáo dục và là chứng nhân,89 thành một người tốt, một tín hữu sốt sắng và một tông đồ nhiệt thành.90 Điều này đòi hỏi giáo lý viên phải được đào tạo Thánh kinh và Thần học, được tiếp xúc với các khoa học tâm lý, xã hội, giáo dục và truyền thông, được đào tạo về sư phạm và được đào tạo giữa lòng các cộng đoàn Kitô hữu91 cũng như trong các trường dành cho giáo lý viên thông thường, cho người có trách nhiệm về huấn giáo và cho các chuyên viên về huấn giáo.92

Những địa điểm huấn giáo

60. Trong lịch sử, địa điểm hay trung tâm huấn giáo chính là cộng đoàn tín hữu dưới những dạng thức khác nhau, mẫu mực như Giáo Hội hoàn vũ và Giáo Hội địa phương, gần gũi như gia đình, giáo xứ, trường học Công giáo, các hiệp hội và phong trào Công giáo, các cộng đoàn Giáo hội cơ bản…, ở những nơi ấy người Kitô hữu được sinh ra, được giáo dục và sống trong đức tin.93

Việc tổ chức mục vụ huấn giáo

Cấp giáo phận

61. Việc dạy giáo lý là một sinh hoạt rất quan trọng trong đời sống của một Giáo Hội địa phương, đến nỗi không một giáo phận nào mà không cần đến một Ban giáo lý.94 Ban giáo lý (BGL) là cơ quan qua đó giám mục, người chịu trách nhiệm cộng đoàn và thầy dạy đức tin, điều hành và hướng dẫn tất cả các sinh hoạt huấn giáo của giáo phận.95
Nhiệm vụ chính của BGL giáo phận là:
       a/ phân tích tình hình giáo dục đức tin để xác định nhu cầu liên quan đến huấn giáo,
      b/ soạn thảo một chương trình hành động ấn định rõ mục tiêu, phương hướng và hoạt động cụ thể, c/ khuyến khích và đào tạo giáo lý viên,
       d/ soạn thảo hay cung cấp cho giáo lý viên những phương tiện hỗ trợ cho việc dạy giáo lý,
       e/ tăng cường và nâng đỡ những học viện chuyên biệt về giáo lý của giáo phận,
       f/ cải thiện nguồn nhân vật lực ở cấp giáo phận, giáo hạt và giáo xứ, và
      g/ cộng tác với ủy ban Phụng vụ, đặc biệt trong việc dạy giáo lý khai tâm và dự tòng.96 Để hoàn tất những công việc trên, văn phòng giáo lý phải nhờ đến một nhóm linh mục, tu sĩ và giáo dân có khả năng chuyên môn.97

Cấp liên giáo phận

62. Các giáo phận khác nhau, đặc biệt các giáo phận gần gũi về mặt địa lý và đồng nhất về văn hóa, nên kết hợp những hoạt động riêng lại với nhau, góp chung những kinh nghiệm và những việc làm, những khả năng và những phương tiện, để những giáo phận có nhiều khả năng hơn giúp đỡ các giáo phận khác và người ta có thể soạn thảo một chương trình hành động chung mang tính địa phương.98

Cấp quốc gia

63. Bên cạnh Hội đồng Giám mục, phải thiết lập một ban huấn giáo hay trung tâm quốc gia về huấn giáo mà nhiệm vụ chính là giúp đỡ mỗi giáo phận về công việc dạy giáo lý, những công việc vượt qua khả năng của giáo phận hay của miền như xuất bản những tài liệu cấp quốc gia, tổ chức những hội nghị toàn quốc, phổ biến những thông tin và kế hoạch về huấn giáo, phối hợp sinh hoạt và giúp đỡ các giáo phận thiếu trang bị về vấn đề huấn giáo.99

Cấp quốc tế

64. Trong việc huấn giáo, tác vụ của Phêrô được thực thi một cách tuyệt vời qua những giáo huấn của người. Về vấn đề huấn giáo, Đức Thánh Cha hành động cách trực tiếp và đặc biệt qua trung gian của Bộ Giáo Sĩ.100

Tầm quan trọng của sự phối hợp

65. Các hoạt động loan báo Tin Mừng nói chung và huấn giáo nói riêng cần có sự phối hợp tốt.101 Sự phối này không chỉ là vấn đề thuần túy chiến lược để làm cho các hoạt động được hiệu quả hơn, nhưng còn là vấn đề thần học liên quan đến sứ vụ duy nhất và toàn vẹn của Giáo Hội: duy nhất vì khởi đi và quy hướng về Đức Giêsu Kitô, toàn vẹn vì bao gồm nhiều hoạt động từ loan báo Tin mừng đầu tiên đến tăng trưởng đức tin cũng như đem Tin Mừng thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hoá.102
66. Trong thực tế, cần có sự phối hợp giữa những hình thức dạy giáo lý cho các lứa tuổi và môi trường xã hội khác nhau, giữa việc dạy giáo lý với những hình thức khác của tác vụ Lời Chúa và loan báo Tin Mừng, giữa sinh hoạt truyền giáo và sinh hoạt dự tòng, giữa hoạt động giáo dục và giáo dục đức tin cho cùng một đối tượng nhất là ấu nhi, thiếu nhi, thiếu niên và giới trẻ.103
67. Kế hoạch giáo lý cấp giáo phận bao gồm những tiến trình dạy giáo lý khác nhau dành cho những người được thừa hưởng thuộc các lứa tuổi khác nhau”.104 Để các tiến trình dạy giáo lý khác nhau này có được sự liên kết chặt chẽ với nhau trong một kế hoạch giáo lý duy nhất, cần quan tâm đến việc dạy giáo lý cho người trưởng thành đồng thời lấy nó làm trục chính.105

2. Dạy giáo lý trong bối cảnh Tân Phúc Âm Hóa

68. Công đồng Vaticanô II từ năm 1965 đã nhận ra những đổi thay sâu xa trong đời sống xã hội tác động lớn lao trong trên đời sống đức tin của các tín hữu: “nhân loại hôm nay đang sống vào một giai đoạn mới của lịch sử của mình. Đó là giai đoạn chất chứa những đổi thay sâu xa và mau chóng đang dần dần lan rộng tới toàn thể hoàn cầu. Những thay đổi do óc thông minh và nỗ lực sáng tạo của con người khơi dậy, đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người, trên những phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể con người, trên cách suy tư và hành động đối với sự vật cũng như con người. Như vậy, chúng ta có thể nói đến sự biến đổi đích thực về mặt xã hội cũng như văn hóa, sự biến đổi này đang lan tràn tới cả đời sống tôn giáo”.106
69. Từ những nhận định của Công Đồng, Đức Thánh Cha Chân Phước Gioan Phaolô II đã đưa ra chương trình mục vụ “Tân Phúc âm hóa” mà nội dung chính đã được Ngài diễn tả trong bài nói chuyện với các Giám mục Châu Mỹ La tinh nhân dịp kỷ niệm 500 năm rao giảng Phúc Âm tại châu lục này: “Công cuộc kỷ niệm bán thiên niên việc rao giảng Phúc Âm sẽ có đầy đủ ý nghĩa nếu chư huynh, là giám mục, cùng với hàng linh mục và giáo dân, dấn thân không phải trong việc Tái Phúc âm hoá (re-evangelization), nhưng trong cuộc Tân Phúc âm hóa (new evangelization): mới về lòng nhiệt thành, mới về phương pháp và mới về cách diễn tả.”
70. Trong tông huấn “Người Kitô Hữu Giáo Dân” (Christifideles laici), công bố năm 1988, ĐTC Chân Phước Gioan Phaolô II lại nói đến Tân Phúc Âm hóa nhưng trong một hoàn cảnh khác, hoàn cảnh của “nhiều quốc gia, trước đây có một đời sống Kitô phồn thịnh và có khả năng làm phát sinh những cộng đồng đức tin sống động, nay bị thử thách nặng nề hay có khi bị biến đổi sâu xa vì những hiện tượng thờ ơ, thế tục hoá và vô thần. Đây đặc biệt là hoàn cảnh của các nước thuộc thế giới tân tiến. Tại các vùng khác trên thế giới, các truyền thống đạo đức và các tâm tình Công giáo vẫn còn được bảo tồn sống động. Nhưng các gia sản thiêng liêng đó đang gặp nguy cơ bị tan biến dưới sức mạnh của nhiều trào lưu, trong đó có trào lưu tục hóa và sự lan tràn của các giáo phái (sects). Chỉ có cuộc Tân Phúc âm hoá mới có thể đoan chắc cho đức tin thăng tiến tinh nguyên và sâu xa, có khả năng làm cho những truyền thống ấy trở thành một sức mạnh tự do thật”.107

Tân phúc âm hóa là gì?

71. Những thay đổi trong xã hội ngày càng sâu rộng và gây ra cuộc khủng hoảng đức tin trong đời sống Giáo Hội. Vì thế, ĐTC Bênêđictô XVI đã coi Tân Phúc âm hóa như chương trình mục vụ chính yếu, qua việc thiết lập Hội đồng Giáo hoàng về việc cổ vũ Tân Phúc âm hóa và triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục khóa thường lệ, lần thứ XIII, tháng 10 năm 2012, với đề tài “Tân phúc âm hóa để thông truyền Đức Tin”.
72. Trong Tài liệu Chuẩn bị cho Hội Nghị vào tháng 10 năm 2012, Thượng Hội đồng Giám mục không chỉ muốn duyệt xét lại thái độ của chúng ta đối với việc LBTM trên bình diện hành động, nhưng còn muốn: duyệt xét lại phẩm chất của đức tin của chúng ta, duyệt xét lại cách thức là Kitô hữu, môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, được sai đi để giới thiệu Ngài cho thế giới, là chứng nhân đầy tràn Chúa Thánh Thần (x. Lc 24,48; Cv 1,8), được kêu gọi để ra đi làm cho mọi người thuộc mọi dân nước trở thành môn đệ của Chúa Kitô (x. Mt 28,19). Câu hỏi về việc truyền đạt đức tin không được xoay vần chung quanh chiến thuật truyền đạt cho hữu hiệu hơn, hay chung quanh đối tượng của việc truyền đạt, nhưng phải được hiểu như câu hỏi nhắm đến chủ thể được trao phó trách nhiệm lo công việc thiêng liêng này. Phải trở thành một câu hỏi của Giáo Hội về chính mình.108

Tân Phúc Âm hóa những gì?

73. Trong ba lãnh vực cần canh tân là lòng nhiệt thành, phương pháp và cách diễn tả, thì ưu tiên hàng đầu là canh tân lòng nhiệt thành nơi những người dấn thân trong các lãnh vực mục vụ của Giáo Hội, gồm các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân; sau đó, mới đến phương pháp và sau cùng là cách diễn tả.

Tân Phúc Âm hóa chủ thể dạy giáo lý

74. Để có thể đổi mới lòng nhiệt thành trong công cuộc “Tân Phúc Âm hóa”, trước hết cần đổi mới nhiệt tình của chủ thể giáo lý, nghĩa là đổi mới nhiệt tình loan báo Tin Mừng của chính giáo lý viên, những người trực tiếp tham gia dạy giáo lý. Điều này đòi hỏi tái xác định căn tính của giáo lý viên và khám phá lại linh đạo của giáo lý viên theo tinh thần Tân Phúc Âm hóa.

Xác định lại căn tính của Giáo lý viên

75. Trong cái nhìn của Giáo Hội, giáo lý viên là: (1) “những chuyên viên, những chứng nhân trực tiếp, những người rao giảng Phúc âm không thể thay thế; họ là những người tiêu biểu cho sức mạnh căn bản của các cộng đoàn Kitô hữu”;109 (2) “một giáo dân được Giáo Hội đề cử, tùy theo những nhu cầu địa phương, để làm cho Đức Kitô được nhận biết, yêu mến và bước theo, nơi những người chưa biết Chúa và ngay cả nơi các tín hữu”;110 (3) một ơn gọi phát xuất từ bí tích Rửa tội và được củng cố bằng bí tích Thêm sức.111

Khám phá lại linh đạo giáo lý viên

76. Trong bài nói chuyện với khoảng 1.600 giáo lý viên tại Đại Hội Quốc tế về Giáo lý diễn ra ở Rôma từ 26-29/9/2013, ĐTC Phanxicô cho thấy nét chính yếu trong linh đạo giáo lý viên:
(1) kết hợp mật thiết với Đức Kitô,
(2) noi gương Đức Kitô ra khỏi chính mình để gặp gỡ người khác, và
(3) đến tận những vùng biên để loan báo Tin Mừng.
Theo Đức Thánh Cha, đổi mới lòng nhiệt thành là khởi sự lại từ Đức Kitô, là “đi vào một cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình”,112 cụ thể là sống thân mật với Chúa trong thinh lặng, trong sự hiện diện của Ngài, để cho lửa tình yêu của Ngài sưởi ấm tâm hồn để có thể sưởi ấm tâm hồn những người khác; là học với Chúa để ra khỏi chính mình và gặp gỡ những người khác. Giáo lý viên phải ý thức rằng mình đã nhận được một món quà đức tin, đến lượt mình, cũng phải trao nó lại cho những người khác như một món quà; là đi với Chúa đến tận các vùng biên, nơi Chúa Giêsu chờ đợi chúng ta trong con tim của anh em chị em, nơi vết thương hằn sâu trên da thịt của họ, trong đời sống bị áp bức của họ, trong tâm hồn thiếu vắng niềm tin của họ.113
Linh đạo này giúp giáo lý viên đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui.

Tân Phúc Âm hóa phương pháp dạy giáo lý

77. Trong Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, ĐTC Phanxicô dành tất cả 14 số [160-174] để bổ sung cho những văn kiện của Tòa Thánh về việc dạy giáo lý. Sau khi xác định việc dạy giáo lý như là đòi hỏi của mệnh lệnh truyền giáo nhằm giúp người thụ giáo lớn lên trong đức tin (Gl 2,20) [160] nhờ tăng trưởng trong đức ái (1 Tx 3,12) [161] hay giúp họ được biến đổi trong Đức Kitô nhờ sống một đời sống “theo Thần Khí” (Rm 8,5) [162], Đức Thánh Cha đề cập tới trọng tâm của việc dạy giáo lý [163-165], khía cạnh khai tâm mầu nhiệm (mystagogic initiation) trong việc dạy giáo lý [166-168], đồng hành thiêng liêng [169-173] và nguồn mạch của việc dạy giáo lý [174]. Chúng ta cùng tìm hiểu các vấn đề này, ngoại trừ việc khai tâm mầu nhiệm sẽ được bàn tới trong đề mục sau.

Lời loan báo Tin Mừng đầu tiên phải không ngừng vang lên

78. Theo Đức Thánh Cha, lời loan báo Tin Mừng đầu tiên “Đức Kitô yêu bạn và hiến mạng sống để cứu bạn. Ngài đang sống bên cạnh bạn để soi sáng, ban sức mạnh và giải thoát bạn” phải không ngừng vang lên trên môi miệng của giáo lý viên. Nó là lời rao giảng chính yếu mà giáo lý viên phải không ngừng nghe đi nghe lại cũng như lặp đi lặp lại bằng nhiều cách khác nhau trong suốt tiến trình huấn giáo, ở mọi cấp độ và mọi thời điểm, vì chính bản thân giáo lý viên cần được loan báo Tin Mừng.114 Lời rao giảng này được phản ánh trong huấn giáo và không ngừng soi sáng huấn giáo. Nó phải diễn tả tình thương cứu độ của Thiên Chúa và đi trước mọi bổn phận luân lý hay tôn giáo. Nó không được áp đặt nhưng kêu gọi tự do đón nhận sự thật. Nó phải được đánh dấu bằng niềm vui, sự khích lệ, sức sống và sự cân bằng hài hòa để không bị giản lược vào mớ lý thuyết khô khan mang tính triết học hơn là tính phúc âm. Điều này đòi hỏi giáo lý viên phải có thái độ gần gũi, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nồng ấm, niềm nở, tựu trung là không phê phán nhưng giúp người nghe mở lòng ra cho sứ điệp Tin Mừng.115

Đồng hành với người thụ giáo trong tiến trình tăng trưởng đức tin

79. Trong thế giới mà con người đau khổ không những vì không được ai biết đến mà còn vì tò mò tọc mạch đời sống của người khác, thì kitô hữu phải học biết đồng hành với người khác trong sự tôn trọng huyền nhiệm của họ, phải thể hiện được thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của Đức Kitô để giúp chữa lành và khích lệ họ tăng trưởng trong đời sống kitô giáo.116
Đồng hành thiêng liêng phải dẫn người khác đến gần Chúa hơn, nơi Người họ đạt tới sự tự do đích thực. Nó sẽ phản tác dụng khi giúp họ trở nên tự mãn hơn và không còn lữ hành với Đức Kitô trên đường về với Chúa Cha.117
80. Việc đồng hành với người khác đòi hỏi sự thận trọng, cảm thông, kiên nhẫn và ngoan ngoãn vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, cần phải biết lắng nghe người khác với lòng tôn trọng và cảm thông để có được những lời nói và cử chỉ thích hợp giúp đánh thức khát vọng lý tưởng kitô giáo, ước muốn đáp lại tình yêu của Thiên Chúa ở nơi họ và làm cho những gì Ngài gieo trong cuộc đời họ sinh hoa kết trái. Vì vậy, cần có khoa sư phạm dẫn người ta từng bước một tới sự lãnh hội đầy đủ mầu nhiệm, đạt tới sự trưởng thành thể hiện qua những quyết định tự do và trách nhiệm.118
81. Đồng hành viên cần hiểu hoàn cảnh và đời sống thiêng liêng của mỗi người là một huyền nhiệm không thể thấu triệt từ bên ngoài. Do đó, khi cần phải sửa lỗi để họ lớn lên, đồng hành viên sẽ giúp họ nhận ra điều xấu đã làm mà không quy trách và kết tội. Đồng hành viên giỏi không đầu hàng trước thất bại và sợ hãi nhưng mời gọi người khác bỏ lại mọi sự phía sau để lên đường loan báo Tin Mừng.119
Việc đồng hành thiêng liêng đích thực luôn khởi đầu và triển nở trong lãnh vực phục vụ cho truyền giáo. Khi đồng hành với các môn đệ, thánh Phaolô cống hiến cho họ những quy tắc cho đời sống cá nhân và hoạt động mục vụ, chứ không can thiệp hay bỏ mặc họ tự thể hiện cách đơn độc.120

Việc dạy giáo lý phải dựa trên Lời Chúa

82. Mọi hoạt động loan báo Tin Mừng phải dựa trên Lời Chúa, phải lắng nghe, suy niệm, sống, cử hành và làm chứng cho Lời. Lời Chúa chính là nguồn mạch của việc loan báo Tin Mừng. Lời Chúa phải không ngừng được đặt một cách đầy đủ hơn vào tâm điểm của mọi hoạt động của Hội Thánh. Việc giảng Lời sống động và hiệu quả có tác dụng chuẩn bị cho việc lãnh nhận bí tích và Lời đạt được hiệu quả tối đa trong bí tích.121
Thiên Chúa đã nói với chúng ta tất cả những gì chúng ta cần biết về Người trong Kinh Thánh. Vì thế, chúng ta cần phải học hỏi nghiêm túc và thường xuyên về Kinh Thánh, đặc biệt đọc Lời Chúa trong tâm thế cầu nguyện (lectio divina). Lời Chúa phải triệt để làm cho việc dạy giáo lý và mọi cố gắng thông truyền đức tin của chúng ta trở nên phong phú.122

Tân Phúc Âm hóa cách diễn tả trong việc dạy giáo lý

83. Đức Thánh Cha nhắc nhở giáo lý viên phải quan tâm đến khía cạnh khai tâm mầu nhiệm (mystogogic initiation) trong việc dạy giáo lý. Việc khai tâm này đòi hỏi sự tham gia của cộng đoàn và việc đánh giá lại các dấu chỉ phụng vụ. Theo Đức Thánh Cha, nhiều thủ bản và chương trình chưa lưu ý đủ đến nhu cầu khai tâm mầu nhiệm vốn có nhiều dạng thức khác nhau tùy nhận thức của mỗi cộng đoàn giáo dục.

Vận dụng các biểu tượng giầu ý nghĩa

84. Huấn giáo là việc công bố Lời và luôn tập trung vào Lời, nhưng cũng đòi hỏi môi trường thích hợp và sự trình bày hấp dẫn, việc sử dụng các biểu tượng giầu ý nghĩa vốn tháp nhập người nghe vào tiến trình tăng trưởng rộng hơn, việc toàn nhập mọi chiều kích của con người vào hành trình lắng nghe và đáp lại của cộng đoàn.123

Vận dụng cái đẹp để thông truyền đức tin

85. Huấn giáo không chỉ nhấn đến sự thật nhưng cần chú ý và quý chuộng cái đẹp vì nó là phương tiện làm rung động lòng người và giúp cho sự thật cũng như sự tốt lành của Đấng Phục Sinh trở nên rạng rỡ trong lòng họ. Vì vậy, cần phải huấn luyện vận dụng cái đẹp để thông truyền đức tin. Mỗi Giáo hội phải khuyến khích dùng nghệ thuật cổ điển hoặc đương đại trong công cuộc Phúc Âm hóa, mạnh dạn khám phá những ký hiệu mới, những biểu tượng mới, những cách thể hiện khác nhau của cái đẹp cũng như những hình thức phá cách của nó trong các nền văn hóa để thông truyền đức tin.124

·         Nhấn mạnh đến sự hấp dẫn và lý tưởng của đời sống trung thành với Tin Mừng

86. Về khía cạnh luân lý trong huấn giáo, cần nhấn mạnh luôn đến sự hấp dẫn và lý tưởng của đời sống khôn ngoan, thành toàn và phong phú khi trung thành với Tin Mừng. Nhờ sự hấp dẫn và lý tưởng đó, người ta hiểu được tại sao mình phải từ bỏ điều xấu. Giáo lý viên không nên là chuyên viên báo họa hay quan tòa khắc nghiệt, trái lại, nên là sứ giả vui tươi của những đề nghị đầy thách thức hay người bảo vệ cái tốt và cái đẹp trong đời sống trung thành với Tin Mừng.125

Nhận định chung

87. Hướng dẫn của Giáo Hội hoàn vũ về huấn giáo cho chúng ta thấy việc dạy giáo lý trước hết và trên hết phải phục vụ cho sứ vụ chung của Giáo Hội là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho mọi người, nhờ đó họ khám phá ra ý nghĩa đời sống và được lớn lên như những con người mới. Nếu như sứ vụ này có tính duy nhất vì khởi đi và quy hướng về Đức Giêsu và có tính toàn diện vì bao gồm nhiều hoạt động khác, từ loan báo Tin Mừng đầu tiên đến giáo dục đức tin trưởng thành và đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hóa, thì mọi hoạt động giáo lý cũng phải duy nhất và toàn diện: duy nhất khi công bố Danh Chúa Giêsu và toàn diện khi làm cho đức tin của các tín hữu lớn lên qua các giai đoạn cho đến mức trưởng thành và trở thành tác nhân biến đổi xã hội.
88. Trong bối cảnh Tân Phúc Âm hóa, huấn giáo hồi sinh đức tin cho những người đã được rửa tội, dẫn đưa họ đến cùng Chúa Giêsu, đến cuộc gặp gỡ cá vị với Ngài, để chính họ có thể trở thành người thông truyền đức tin, thông truyền kinh nghiệm gặp gỡ Chúa cho mọi người.

Như thế, dù có nhiều hình thức Phúc Âm hóa khác nhau và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau thì mọi nỗ lực và hoạt động giáo lý vừa phải trung thành với Thiên Chúa, nghĩa là trung thành với sứ điệp Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng làm người, đã chết và sống lại, vừa phải trung thành với con người, nghĩa là phải khởi đi từ những hoàn cảnh cụ thể và các mối quan tâm của họ, rồi quy về mối tương quan giữa con người với nhau cũng như giữa con người với Thiên Chúa

CHƯƠNG III

HƯỚNG CANH TÂN GIÁO LÝ TẠI VIỆT NAM

Bên cạnh những hướng dẫn tổng quát của Giáo Hội hoàn vũ, còn có những hướng dẫn cụ thể của Giáo Hội địa phương mà chúng ta phải quan tâm để hoạt động giáo lý được hòa hợp với kế hoạch mục vụ chung của Giáo Hội tại Việt Nam. Hơn nữa, các giám mục là những người đầu tiên chịu trách nhiệm đối với vấn đề huấn giáo của Giáo Hội địa phương.126

1. Hội đồng Giám mục Việt Nam và việc dạy giáo lý

89. Chúng ta có thể nhận được sự hướng dẫn của Hội đồng Giám mục Việt Nam qua thư chung về giáo dục đức tin năm 2007 và thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010.

Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007

Sau khi nhận định về hiện tình giáo dục và giáo dục đức tin tại Việt Nam, Hội đồng Giám mục đã đề ra những phương hướng cụ thể cho hoạt động giáo dục Kitô giáo, cách riêng trong lãnh vực đức tin.
90. Trong Thư Chung năm 2007, các giám mục lạc quan khi thấy đông đảo học viên theo học các lớp giáo lý dự tòng và hôn nhân hay giới trẻ vẫn còn quí trọng những giá trị Kitô giáo. Các ngài cũng tỏ ra quan ngại khi thấy nhiều bậc phụ huynh công giáo, kể cả các vị mục tử, vẫn còn lơ là hoặc thiếu trách nhiệm trong việc thông truyền đức tin cho con cái, không tổ chức hoặc không lo lắng cho con em tham dự những lớp giáo lý tại giáo xứ. Một số nơi, giáo lý vẫn còn bị xem là những bài lý thuyết cần phải thuộc lòng để được lãnh bí tích. Việc giảng dạy chưa thực sự có phương pháp sư phạm phù hợp và chưa đi với chứng từ sống động của người rao truyền. Những bất cập trên đây đòi chúng ta phải điều chỉnh lại cung cách giáo dục đức tin cho đúng tinh thần Tin Mừng.127
91. Đối với các giám mục, giáo lý viên giống như cành nho gắn liền với thân nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để chuyển đến các học viên bằng chứng từ rao giảng và thực thi huấn lệnh Chúa (20), đồng thời mọi Kitô hữu chúng ta đều là giáo lý viên, bởi vì qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi tham gia vào một công trình giáo dục trong đó, theo lời Ðức Gioan Phaolô II, "mỗi chúng ta vừa là đích điểm, vừa là khởi điểm của việc huấn luyện: chúng ta càng tự rèn luyện mình, càng có khả năng huấn luyện người khác".128
92. Theo các giám mục, giáo dục đức tin trong gia đình không thể tách rời khỏi giáo dục đức tin tại giáo xứ. Nếu tại gia đình, đức tin được truyền thụ bằng phương pháp tiếp cận và thực hành, những bài học được giảng dạy ngay giữa thực tế, thì tại giáo xứ, đức tin được thông truyền nhờ giảng giải và cử hành phụng vụ. Chính khi đối chiếu và đón nhận cảm tưởng của nhau, đoàn kết yêu thương và cầu nguyện chung với nhau, đức tin của Kitô hữu được nuôi dưỡng và củng cố.129 Những lớp giáo lý là những phương cách căn bản của giáo dục Kitô giáo, cha xứ cùng với các giảng viên sẽ chịu trách nhiệm khai tâm Kitô giáo và dạy giáo lý cho các học viên chuẩn bị lãnh các bí tích. Tại đây, giáo dân có môi trường thể hiện đức tin với các thành phần khác của cộng đoàn và được tham dự cách ý thức vào các giờ kinh lễ, phụng vụ, bí tích. Cùng với giáo xứ, các tổ chức, các đoàn thể Công Giáo và cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng là những môi trường không thể thiếu để giáo dục Kitô giáo được triển nở toàn vẹn và quân bình.130
93. Trong các nhiệm vụ của việc dạy giáo lý, các giám mục nhấn mạnh đến việc huấn luyện lương tâm. Huấn luyện lương tâm, theo các giám mục, không chỉ là giảng dạy những mệnh lệnh luân lý nhưng còn tập cho học viên hồn nhiên lắng nghe lòng mình phán đoán thiện ác. Khi có lương tâm ngay thẳng, con người sẽ dễ dàng cộng tác để xây dựng cuộc sống công bằng, tôn trọng phẩm giá và sự sống con người hơn.131
94. Sau hết, các giám mục nhắc nhở các nhà giáo dục cũng như giáo lý viên phải quan tâm đến truyền thống văn hóa Việt Nam và phát huy nền văn hóa của dân tộc. Dân tộc chúng ta lấy đạo hiếu làm nền tảng đạo đức. Vì thế, nó phải là tiêu chí của nền giáo dục Kitô giáo tại Việt Nam (37).132

Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010

Xây dựng hiệp thông, mối bận tâm mục vụ chính của Giáo Hội tại Việt Nam

95. Giáo Hội tại Việt Nam quan tâm đến việc củng cố và phát huy sự hiệp thông với Giáo Hội phổ quát cũng như các Giáo Hội chị em khác, nhằm thể hiện sự hợp nhất như Chúa Giêsu mong đợi (x. Ga 17,21) đồng thời nỗ lực xây dựng hiệp thông trong Giáo Hội địa phương qua sự hợp nhất yêu thương giữa mọi thành phần Dân Chúa.133
Mối tương quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt nền trên phẩm giá bình đẳng của mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của từng tín hữu nơi Thân Mình Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến. Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo Hội tại Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở mọi cấp bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Việc xây dựng một Giáo Hội hiệp thông và tham gia phải là mối quan tâm mục vụ hàng đầu của Giáo Hội tại Việt Nam trong những năm sắp tới.134
96. Đại Hội Dân Chúa ý thức rằng việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng. Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên.135
97. Để hiểu rõ hơn những mong mỏi của Dân Chúa được ghi lại vắn tắt trong Thư Chung, chúng ta có thể xem lại những đề nghị của Đại Hội về huấn giáo. Trong đề nghị số 2, Dân Chúa kiến nghị: Trong chương trình đào tạo linh mục, cần tạo điều kiện cho các chủng sinh có những kinh nghiệm về dạy giáo lý cho nhiều lứa tuổi và nhiều tầng lớp khác nhau; trong chương trình thường huấn linh mục, cần củng cố ý thức về tầm quan trọng của huấn giáo trong cuộc canh tân liên lỉ của Giáo Hội; trong mục vụ giáo xứ, cần đặt huấn giáo thành mối quan tâm hàng đầu; trong việc đào tạo giáo lý viên, cần giúp các giáo lý viên hun đúc tinh thần tông đồ, đạt được một kiến thức giáo lý vững chắc và được canh tân dựa trên Lời Chúa, cùng với phương pháp sư phạm thích hợp, để trình bày giáo lý cách hữu hiệu, cũng cần có những khóa nâng cao trình độ giáo lý viên cũng như những buổi tĩnh tâm, linh thao, trại hè, giao lưu… cho giáo lý viên trong giáo phận; cần chú trọng đến chương trình giáo lý trước và sau Hôn phối, nhằm giúp các gia đình trẻ sống trọn vẹn ơn gọi đời sống hôn nhân. Để thực hiện chương trình này, cần có sự hợp tác giữa linh mục và tu sĩ với anh chị em giáo dân có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm đời sống gia đình.
98. Trong đề nghị 21, Dân Chúa ý thức rằng Giáo Hội tại Việt Nam gặt hái nhiều thành quả tông đồ nhờ các giáo lý viên, trẻ cũng như đứng tuổi, đang dấn thân quảng đại cho việc dạy giáo lý, trong các cộng đoàn cũng như ở những nơi rất hẻo lánh. Để các giáo lý viên có thể chu toàn sứ mạng cao cả, cần chú tâm đến việc đào tạo. Chương trình đào tạo giáo lý viên phải quan tâm đến cả bốn chiều kích: nhân bản, tri thức, thiêng liêng và mục vụ. Giáo phận nên tìm ra những phương thức cụ thể để hỗ trợ các giáo lý viên, ngay cả về vật chất tài chính, vì nhiều người trong họ tuy rất quảng đại song đời sống còn rất chật vật.
Có thể nói thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2012 đã thực hiện được một bước đi mang tính đột phá. Nó không chỉ là công trình của hàng giám mục mà của mọi thành phần Dân Chúa: “Các vị đại diện của mọi thành phần Dân Chúa sẽ cùng với Hội Đồng Giám Mục cầu nguyện, suy nghĩ và trao đổi nhằm nhận diện những thuận lợi và thách đố cho Giáo Hội Việt Nam trong hoàn cảnh hiện tại, đề ra những hướng đi mục vụ thích hợp trong giai đoạn tới, mong xây dựng Giáo Hội như lòng Chúa mong muốn là Giáo Hội của Chúa Kitô ở giữa dân tộc của mình” (Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư Chung gởi Cộng đồng Dân Chúa,  ban hành tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, ngày 9 tháng 4 năm 2010).
Trong ý hướng ấy, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, là hướng dẫn căn bản của Giáo Hội cho việc canh tân huấn giáo tại Việt Nam. Cho dù, Thư Chung chỉ trực tiếp đề cập tới huấn giáo khi đề cập tới việc học hỏi Lời Chúa ở số 11, nhưng hướng đi mục vụ mà các giám mục chọn lựa cho hoàn cảnh hiện tại mới là điều quan trọng và định hướng cho mọi hoạt động mục vụ nói chung và cho huấn giáo nói riêng.

2. Hiệp thông, cách thức mới để sống và hoạt động mục vụ

99. Trong Thư Chung này, các giám mục không chỉ quan tâm đến sự hiệp thông mà còn đặt sự hiệp thông làm cách thức mới để sống và hoạt động mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Chọn lựa này mở ra cuộc hoán cải theo Tin Mừng trên bình diện Giáo Hội. Cuộc hoán cải này đòi hỏi Giáo Hội xuất phát lại từ bản chất của mình là hiệp thông, sự hiệp thông năng động với Thiên Chúa được sống và thể hiện trong sự hiệp thông với anh chị em của mình, như các tín hữu và như những con người-hình ảnh Thiên Chúa.
Xuất phát lại từ sự hiệp thông mà Thiên Chúa ban tặng cho mình từ ban đầu, Giáo Hội tại Việt Nam không thể giam mình trong “tháp ngà” nhưng phải “ra khỏi chính mình” để đến với mọi người, chia sẻ “vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” của họ, nhờ đó, có thể nhận ra hoạt động Thánh Thần nơi những người nghèo hèn bé mọn. Giáo Hội phải xâm nhập thực tế, phân tích xã hội, suy tư thần học trước khi lập ra những kế hoạch mục vụ.
100. Như thế, sự hoán cải dưới ánh sáng của sự hiệp thông Giáo Hội khơi nguồn cho sự hoán cải trong mục vụ, mở ra một chu kỳ mục vụ năng động (Dynamic Pastoral Cycle) và dẫn đến một lối tiếp cận mục vụ toàn diện (Asian Integral Pastoral Approach) vốn được đánh giá dựa trên tình yêu của người môn đệ dành cho những người bé mọn. Kế hoạch mục vụ vốn được hiểu như nâng đỡ đức tin của các tín hữu lớn lên qua các giai đoạn cho đến mức trưởng thành, không thể giữ họ mãi mãi là những kẻ hưởng nhận sự chăm sóc mục vụ, mà còn phải làm cho họ, cùng với chủ chăn, dần dần trở thành tác nhân tích cực cho sự biến đổi môi trường nhân sinh.
Tóm lại, sự hoán cải theo Tin Mừng trên bình diện Giáo Hội giúp chúng ta trình bày, sống và là giáo hội một cách mới mẻ. Lối hoạt động mục vụ được khơi nguồn từ sự hoán cải này cho phép chúng ta trình bày một giáo hội là dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa Giêsu đến cho gia đình nhân loại, cách riêng cho người Việt Nam.136

3. Hướng canh tân việc dạy giáo lý tại Việt Nam

101. Huấn giáo, một trong các hoạt động mục vụ của Giáo Hội, không thể đứng ngoài cuộc hoán cải trên bình diện Giáo Hội này. Do đó, hiệp thông cũng phải là cách thức mới để hoạt động giáo lý. Mọi hoạt động giáo lý cũng phải xuất phát lại từ hiệp thông và khai mở cho hiệp thông: từ hiệp thông hiếu thảo với Thiên Chúa, hiệp thông huynh đệ với anh chị em trong Giáo Hội và hiệp thông chan hòa với mọi người trong xã hội để thông truyền đức tin kitô giáo.

Xây dựng hiệp thông hiếu thảo với Thiên Chúa

102. Việc dạy giáo lý phải giúp người thụ giáo có được một trải nghiệm thiêng liêng, nghĩa là kinh nghiệm gặp gỡ cá vị với Đức Kitô nhờ đọc Lời Chúa với tâm thế cầu nguyện (lectio divina), lãnh nhận bí tích, cách riêng bí tích Thánh Thể và Thống Hối và dấn thân phục vụ.
Điều này đòi hỏi giáo lý: a/ phải nhằm dẫn người học đến gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, chú trọng đến việc xây dựng tương quan hơn truyền đạt kiến thức và khuyến thiện; b/ phải làm cho Lời Chúa vang dội trong lòng người người thụ giáo và làm cho trái tim của họ bừng cháy lên niềm vui, niềm tin và hy vọng, muốn thế giáo lý viên phải có khả năng trình bày sứ điệp cách sống động và giúp người nghe nội tâm hóa sứ điệp Tin Mừng; c/ phải tạo điều kiện để người thụ giáo cộng tác với Chúa Thánh Thần biến đổi chính mình và góp phần biến đổi xã hội, muốn thế giáo lý viên phải khước từ “quyền lực cứng” và chọn lựa “quyền lực mềm”.

Xây dựng hiệp thông huynh đệ trong Giáo Hội

103. Dạy giáo lý phải được xem là hoạt động của cả cộng đoàn chứ không phải công việc riêng của giáo lý viên, đồng thời phải góp phần xây dựng cộng đoàn trưởng thành trong mọi lãnh vực.
Điều này đòi hỏi giáo lý phải: a/ củng cố sự cộng tác của gia đình và sự tham gia của mọi phần tử trong giáo xứ, nhất là bầu khí linh thiêng tạo ra bởi việc thể hiện những giá trị của Tin Mừng; b/ giúp cho người thụ giáo tích cực tham gia vào các sinh hoạt cũng như sứ vụ của gia đình và giáo xứ với ý thức và tinh thần trách nhiệm, nghĩa là giáo lý phải vươn ra khỏi “lớp học” và mở ra cho việc hội nhập vào cộng đoàn; c/ được trợ lực bởi nhiều hoạt động mục vụ khác để cùng nhau xây dựng gia đình và giáo xứ thành một cộng đoàn đức tin trưởng thành.

Xây dựng hiệp thông chan hòa với mọi người trong xã hội

104. Giáo lý không những được mời gọi vươn ra khỏi “lớp học” và mở ra cho cộng đoàn gia đình hay giáo xứ, nhưng còn được mời gọi “đến những vùng ven” của văn hóa và xã hội để “cùng nhau xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống”.
Điều này đòi hỏi giáo lý phải: a/ quan tâm nhiều hơn đến những chuyển biến của xã hội và nhu cầu của người thụ giáo đồng thời giúp họ có khả năng đọc các dấu chỉ, để khám phá ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa đồng thời lắng nghe lời mời gọi của Ngài trong các hoàn cảnh khác nhau; b/ giúp cho người thụ giáo có khả năng đáp lại lời Chúa mời gọi từ trong cuộc sống bằng cách dấn thân vào cuộc đối thoại với người nghèo, với các nền văn hóa, với các tôn giáo và với người vô thần, đồng thời hợp tác với họ trong việc phục vụ cho công ích, cho sự sống của con người; c/ giúp cho người thụ giáo có khả năng diễn tả và thông truyền niềm tin của mình, không chỉ bằng lời nói suông mà còn bằng chứng tá sống động, cá nhân cũng như tập thể, của một cuộc sống thật đẹp, cả về thể xác lẫn tinh thần, nhờ sống theo các giá trị của Tin Mừng, đặc biệt là những giá trị của Tám Mối Phúc Thật.

KẾT LUẬN

105. Chúng ta kết thúc những ngày gặp gỡ đầy yêu thương và huynh đệ tại Trung Tâm Mục Vụ của Tổng giáo phận Huế bằng cuộc hành hương về linh địa La Vang để dâng lên Mẹ tâm tình và ước vọng của chúng ta trong nỗ lực canh tân việc dạy giáo lý cho phù hợp với đường hướng chung của Giáo Hội cũng như bối cảnh văn hóa và xã hội Việt Nam, nhằm phục vụ cho công cuộc “Tân Phúc Âm hóa để Thông truyền Đức tin Kitô giáo”.137 Chúng ta nhìn lên Đức Trinh Nữ là mẹ và mẫu gương của giáo lý viên để xin Mẹ dạy chúng ta không ngừng hát lên lời kinh Ca Ngợi, ca lên lời ca của niềm vui Tin Mừng, hầu có được can đảm và sức mạnh dấn thân cho việc Loan báo Tin Mừng. Xin Mẹ cũng dạy chúng ta cách thức làm cho Chúa Giêsu lớn lên trong mỗi người chúng ta cũng như trong những người lắng nghe chúng ta rao giảng Lời Chúa, để tất cả có thể trở nên chứng nhân sống động cho Tin Mừng trên chính quê hương thân yêu của chúng ta.
­­­­­­­­­­­­______________________

1 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 27.
2 Sđd, 34.
3 Sđd, 8.
4 x. http://dantri.com.vn/suc-khoe/dan-so-viet-nam-cham-nguong-90-trieu-nguoi-795902.htm.
5 x. http:// giaothongvantai.com.vn/chinhtri-xahoi/xa-hoi/201312/chenh-lech-gioi-tinh-o-viet-nam-tiep-tuc-tang-433236/
6 x. http://www.vietnamplus.vn/ty-le-vo-sinh-tai-viet-nam-da-gia-tang-dang-lo-ngai/194018.vnp
7 Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là từ các chữ cái đầu của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước (http://vi.wikipedia.org/wiki/AFTA).
8 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là một hiệp định quan trọng được ký kết giữa Việt NamHoa Kỳ trong năm 2001.
9 Tổ chức thương mại thế giới.
10 x. PHẠM MINH THUYẾT, Việt Nam – Mãnh hổ hay Mèo rừng: Phát triển Kinh tế Việt Nam nhìn từ bên ngoài, Tp. HCM: NXB Trẻ, 2013.
11 Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN, điều 4.
12 x. http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp? topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT29121139510
13 HĐGMVN, Thư nhận định và góp ý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, ngày 01/3/2013.
14 x. PHẠM MINH THUYẾT, Việt Nam – Mãnh hổ hay Mèo rừng: Phát triển Kinh tế Việt Nam nhìn từ bên ngoài, Tp. HCM: NXB Trẻ, 2013.
15 x. NGUYỄN THÁI HỢP, Tư duy và lối sống người Việt hiện nay, Tp.HCM: CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình, 2013, 5-11.
16 x. Báo cáo của Chính phủ về tình hình giáo dục tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI.
17 Thống kê năm 2009 của các tổ chức Cao đài.
18 Ban Tôn giáo Chính phủ.
19 www.worldpopulationstatistics.com/vietnam-population-2013.
20 chanlyislam.net/home/modules.php?name=News&op=viewst&sid=191.
21 Ban TG Chính phủ (www.mattran.org.vn/Home/TapChi/so%2057/hdll.htm).
22 Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003); Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004. (x. thanhtra.edu.vn/category/detail/273-quan-diem-cua-chu-nghia-mac---le-nin-ve-ton-giao.html).
23 x. ĐINH ĐỨC ĐẠO, Viễn tượng Mục vụ Truyền giáo tại Việt Nam: Một suy tư nhân dịp chuẩn bị mừng Kim Khánh Giáo Phận Xuân Lộc và cử hành Năm Đức Tin, 2013.
24 x. HĐGMVN, Thư chung 1980.
25 x. HĐGMVN, Thư chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010.
26 x. Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN, Thống kê Giáo hội Việt Nam 1933-2008.
27 x. Văn phòng Tổng Thư ký HĐGMVN, Thống kê năm 2012.
28 x. TỔNG CỤC THỐNG KÊ VIỆT NAM, năm 2012.
29 x. ĐINH ĐỨC ĐẠO, Viễn tượng Mục vụ Truyền giáo tại Việt Nam: Một suy tư nhân dịp chuẩn bị mừng Kim Khánh Giáo Phận Xuân Lộc và cử hành Năm Đức Tin, 2013.
30 x. ĐINH ĐỨC ĐẠO, Truyền giáo và Tân Phúc âm hóa, Hiệp Thông s.73 (Tháng 11&12 năm 2012), 39-42.
31 x. HĐGMVN, Thư Chung HĐHDC 2010, s. 9.
32 x. NGUYỄN NGỌC SƠN, Nhìn lại Sứ mạng Truyền giáo trong 50 năm qua và Hướng đến Tương lai, 5/2009; http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/09news/9news246.htm.
33 x. Sđd.
34 HDTQ, 86.
35 HĐGMVN, Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007 “Giáo dục hôm nay, Xã hội và Giáo Hội ngày mai”.
36 x. PHAN TẤN THÀNH: “Catechesis – Catechismus - Catechetica” trong Thời sự thần học, s.59, Trung Tâm Học Vấn Đa Minh XB, 2/2013, tr. 11-45.
37 HÀ VĂN MINH, Thần học Bối cảnh tác động thế nào đến việc Đào tạo Giáo lý viên, trong Hội thảo Thần học tại TTMV.SG ngày 8/3/2014.
38 BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông huấn Lời Chúa, 74.
39 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 168.
40 Thực ra, tông huấn Evangelii Nuntiandi phân biệt ba môi trường của evangelizatio: 1) Loan báo Tin Mừng cho người ngoại đạo (ss. 50, 51, 53), tức là truyền giáo; 2) Mục vụ (s. 54), chú trọng đến việc huấn giáo; 3) Loan báo canh tân (ss. 52, 56), dành cho những nơi đã mất đạo, hoặc không thực hành đạo. Dù sao, tông huấn Evangelii Nuntiandi đã làm đảo lộn mối tương quan giữa missioevangelizatio. Trước đây (trong Sắc lệnh Ad gentes số 6), evangelizatio ám chỉ một khía cạnh của công tác truyền giáo (missio). Bây giờ, evangelizatio bao trùm toàn thể hoạt động của Hội Thánh, trong đó missio chỉ là một lãnh vực của nó. x. PHAN TẤN THÀNH, Bài thuyết trình Loan báo Tin mừng, tái loan báo Tin mừng, loan báo Tin mừng cách mới mẻ: những bài học lịch sử, trong Forum Thần học 21/4/2012, UBGLĐT.
41 HDTQ 46.
42 HDTQ 48.
43 HDTQ 59; x. DGL 18.
44 HDTQ 61.
45 HDTQ 82.
46 HDTQ 78.
47 x. HDTQ 84.
48 HDTQ 56.
49 x. HDTQ 59.
50 DGL 5; x. HDTQ 80.
51 x. HDTQ 98 - 100.
52 x. HDTQ 84-86.
53 DGL 27; x. HDTQ 94.
54 x. HDTQ 96.
55 HDTQ 120.
56 HDTQ 121.
57 HDTQ 122.
58 HDTQ 123.
59 HDTQ 149.
60 HDTQ 147.
61 HDTQ 148.
62 HDTQ 222.
63 HDTQ 219.
64 x. LBTM 49-50; DGL 14. 35tt.
65 HDTQ 167.
66 HDTQ 163.
67 HDTQ 165.
68 HDTQ 219.
69 HDTQ 222-223.
70 HDTQ 224-225.
71 HDTQ 226-227.
72 HDTQ 228-229.
73 HDTQ 230-231.
74 HDTQ 230-231.
75 x. HDTQ 234.
76 x. HDTQ 232.
77 x. HDTQ 219. 234.
78 x. HDTQ 156.
79 x. HDTQ 233-234.
80 x. HDTQ 29.
81 x. HDTQ 59.
82 x. HDTQ 221.
83 x. HDTQ 235.
84 x. HDTQ 223-225. 235.
85 x. HDTQ 236.
86 x. HDTQ 16-17. 20-21. 23-25.
87 x. HDTQ 235-236.
88 x. HDTQ 237.
89 x. HDTQ 237.
90 x. HDTQ 238-239.
91 x. HDTQ 240-247.
92 x. HDTQ 248-251.
93 x. HDTQ 253.
94 x. HDTQ 267.
95 x. HDTQ 265.
96 x. HDTQ 266.
97 x. HDTQ 267.
98 x. HDTQ 268.
99 x. HDTQ 269.
100 x. HDTQ 270. Hiện nay là Hội đồng Tòa Thánh về việc cổ vũ Tân phúc âm hóa.
101 “... Trong Giáo Hội, ta không thể phó mặc mọi điều trên cho may rủi hay ứng biến bừa bãi. Chúng đòi một cam kết chung đối với một phương án mục vụ có thể gợi lên điểu chủ chốt nghĩa là đặt trọng tâm vào đấng chủ chốt, tức Chúa Giêsu Kitô”. x. Bài diễn văn ngày 14 tháng Mười 2012 của Đức Phanxicô với Hội Nghị Toàn Thể của Hội Đồng Giáo Hoàng về việc cổ vũ Tân Phúc Âm Hóa.
102 x. HDTQ 272.
103 x. HDTQ 273.
104 x. HDTQ 274.
105 x. HDTQ 275.
106 Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, 4.
107 GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Kitô hữu giáo dân, 34.
108 Lineamenta, 1.
109 GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Thế, 73.
110 Hội nghị khoáng đại của Bộ Rao Giảng Phúc âm cho các dân tộc, 1.
111 x. HDTQ 230-231.
112 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 3.
113 x. Bài diễn từ của ĐTC Phanxicô gửi các giáo lý viên nhân dịp Hội nghị quốc tế về Giáo lý tại Rôma 27/9/2013.
114 PHANXICÔ, Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng, 164.
115 Sđd, 165.
116 Sđd, 169.
117 Sđd, 170.
118 Sđd, 171.
119 Sđd, 172.
120 Sđd, 173.
121 Sđd, 174.
122 Sđd, 174.
123 Sđd, 166.
124 Sđd, 167.
125 Sđd, 168.
126 x. HDTQ 270.
127 HĐGMVN, Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007, 9. 15.
128 GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Kitô hữu giáo dân, 7.
129 x. HĐGMVN, Thư Chung về giáo dục đức tin năm 2007, 29.
130 x. Sđd, 30.
131 x. Sđd, 36.
132 x. Sđd 37.
133 x. Sđd, 22.
134 x. Sđd, 23.
135 x. HĐGMVN, Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010, 11.
136 x. NGUYỄN VĂN AM, Người linh mục hôm nay và cuộc hoán cải Tin Mừng dưới ánh sáng Giáo Hội học, Hiệp Thông s.78 (Tháng 9 & 10 năm 2013).
137 THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC XIII, 2012 & HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN, 2013.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét